(Post 25/01/2008) Mô hình bản quyền phần mềm
cũ đang sụp đổ, gây xáo trộn và mở ra cơ hội cho mô hình mới có thể giúp
tiết kiệm chi phí cho người dùng.
Người dùng đang chán ngán với cách thức bán phần mềm
hiện nay. Một khảo sát gần đây của hãng chuyên về giải pháp quản lý phần
mềm Macrovision cho thấy chỉ có 28% doanh nghiệp hài lòng với chính sách
bản quyền và giá phần mềm (PM).
Điều này mở ra cơ hội cho các mô hình mới thay thế, chẳng
hạn như mô hình tính phí thuê bao và theo mức sử dụng. Đồng thời, những
thay đổi về công nghệ như SaaS (Software as a Service - phần mềm dịch
vụ), ảo hoá và bộ xử lý đa nhân càng đẩy nhanh tiến trình thay thế này.
Lấy ví dụ SaaS. Thường SaaS sử dụng phương thức tính
phí theo tháng hay theo số người dùng. Cách này giúp giảm thấp chi phí
ban đầu, thậm chí còn giảm được chi phí phần cứng và cài đặt. Theo một
nghiên cứu gần đây của Aberdeen Group, hơn phân nửa số công ty tham gia
khảo sát đang áp dụng SaaS hoặc đang tích cực tìm hiểu ứng dụng nó.
Những lĩnh vực khác như ảo hoá cũng đã có mô hình bản
quyền thích hợp. Mục đích chính của ảo hoá là cho phép chạy nhiều ứng
dụng và nhiều hệ điều hành đồng thời trên cùng một máy tính để khai thác
tối đa server. Nhưng ưu điểm đó có thể bị triệt tiêu nếu áp dụng phương
thức bản quyền theo từng máy hay bộ xử lý, đây là lý do tại sao cả nhà
sản xuất và người dùng đều muốn tìm giải pháp dung hoà.
Tình hình càng phức tạp hơn khi mà các khách hàng lớn
được hưởng những chính sách bản quyền mới dành riêng cho họ trước các
đối tượng người dùng khác. Nhiều hãng PM đang trì hoãn việc áp dụng rộng
rãi những chính sách này vì sợ sụt giảm doanh thu. Nhưng cuối cùng rồi
họ cũng phải thay đổi nếu muốn giữ chân khách hàng ngày càng khó tính.
Các doanh nghiệp đang nỗ lực cải tiến hiệu suất, điều
này có nghĩa họ cần sử dụng một cách tốt nhất ngân sách dành cho IT. Các
mô hình bản quyền PM mới có khả năng thực hiện điều đó.
Dùng theo nhu cầu
Khảo sát của Macrovision cho cái nhìn khá rõ về sự lựa
chọn bản quyền của người dùng hiện nay. Số doanh nghiệp thích mô hình
bản quyền vĩnh viễn giảm 7% so với năm rồi, số còn lại thích hình thức
thuê bao có thời hạn (tháng hay năm).
Khảo sát cũng cho thấy các hãng PM đang lắng nghe nhu
cầu của khách hàng. Khoảng 40% hãng PM tham gia khảo sát cho biết họ đã
cung cấp hình thức thuê bao từ năm 2005, cao hơn con số 33% của năm 2004
và kỳ vọng lên đến 60% trong năm 2007.
Mad Catz, nhà cung cấp thiết bị video-game đang ăn nên
làm ra, đã chọn con đường SaaS khi cần đưa ra hệ thống trợ giúp mới. Công
ty chỉ có một bộ phận IT nhỏ và kinh nghiệm từ công việc cho thấy có thể
cần đến 1 năm để xây dựng hệ thống này, trong khi Mad Catz cần hệ thống
hoạt động ngay. Sau khi phân tích, cuối cùng công ty quyết định hợp tác
với nhà cung cấp dịch vụ theo yêu cầu Service-now.com.
Mong muốn giải quyết nhanh một vấn đề nghiệp vụ, như
trường hợp Mad Catz, là lý do mà nhiều công ty hiện nay dùng SaaS. Chi
phí nói chung được xem xét là yếu tố thứ hai, nhưng hầu hết những công
ty sử dụng dịch vụ theo yêu cầu nhận ra họ đã tiết kiệm được chi phí khi
tính toán “đầy đủ”, bao gồm việc duy trì giấy phép sử dụng và các chi
phí khác liên quan đến PM và cơ sở hạ tầng đi theo.
MUA
BẢN QUYỀN, NÊN VÀ ĐỪNG |
- Đừng e ngại hỏi hãng cung cấp PM xem họ
có hình thức cấp bản quyền khác với hình thức mà họ đang chào
mời hay không, biết đâu họ có hình thức khác linh hoạt hơn như
thuê bao chẳng hạn.
- Nên xem xét sử dụng công cụ quản lý phần mềm.
Công cụ này cho phép giám sát bản quyền PM hiện có, và rất cần
thiết khi bạn sử dụng hình thức trả phí PM theo mức sử dụng.
- Đừng quá tin. Hình thức thuê bao hay trả phí
theo mức sử dụng từ nhà cung cấp SaaS nghe hấp dẫn nhưng chi phí
phát sinh có thể tăng nhanh. Hãy xác định những thành phần mà
bạn thật sự cần trước, rồi bổ sung các dịch vụ khác sau khi có
nhu cầu.
- Nên giám sát phí bảo trì PM, nó có thể vượt
quá phí bản quyền. Kiểm tra những chi phí bổ sung có thể chưa
lộ rõ.
- Đừng phản ứng vội. Nên đợi đến khi hệ thống
của bạn có thay đổi, như nâng cấp phần cứng, hãng PM sẽ đề xuất
bản quyền mới, lúc đó hãy thương lượng các điều khoản và giá. |
Chuyển sang đa nhân
Các BXL đa nhân chắc chắn sẽ làm nên sự đột phá trong
vấn đề bản quyền PM như SaaS, mặc dù có thể nó sẽ cần thời gian lâu hơn
mới có tác động.
Các BXL hai nhân đã trở nên phổ biến sau khi Intel và
AMD tung ra hàng loạt model. Cả hai công ty cũng đã bắt đầu đưa ra BXL
4 nhân. Chuyên gia nghiên cứu thị trường của IDC dự báo hạ tầng phần cứng
của doanh nghiệp có thể sử dụng đến 50% BXL hai nhân vào năm 2008.
Mối quan tâm của hãng PM là các BXL mới sẽ làm giảm doanh
thu của họ vì về cơ bản chúng cho phép sử dụng PM nhiều hơn so với BXL
1 nhân. Còn mối quan tâm của người dùng thì ngược lại: chính sách bản
quyền mới không tính theo BXL có thể tốn kém hơn.
Các hãng như BEA Systems và Microsoft đã quyết định giữ
cách tính theo BXL, ít ra là với các hệ thống hai nhân. Ví dụ, một server
với 2 BXL hai nhân sẽ tính 2 bản quyền.
Oracle đã đưa ra một chính sách dựa trên cái gọi là “hệ
số BXL”: dựa trên số lượng nhân trong BXL để quyết định số bản quyền cần
thiết. Một BXL 8 nhân có hệ số 0,25 và cần 2 bản quyền PM; một BXL 4 nhân
có hệ số 0,5; v.v...
Giải pháp của IBM khá phức tạp, áp dụng phương thức gọi
là PVU (Processor Value Units). Mỗi BXL được IBM đánh giá năng lực xử
lý và sử dụng công thức phức tạp để gắn một con số PVU. Số PVU càng thấp
thì chi phí PM chạy trên BXL đó càng thấp.
Vướng mắc ảo hoá
Ảo hoá đã qua khỏi giai đoạn phát triển và thử nghiệm,
và bắt đầu bước vào môi trường làm việc thực tế. Các hãng nghiên cứu thị
trường cho rằng hình thức cấp bản quyền dựa trên ảo hoá sẽ được đưa ra
và được các doanh nghiệp lớn áp dụng vào cuối năm 2008. Có 2 cách tính
được ưa thích: hoặc tính trung bình của các máy ảo, hoặc tính phần cứng
máy chủ.
Nhưng cũng có người phản đối việc trả nhiều tiền hơn
cho môi trường ảo hoá so với môi trường bình thường vì cho rằng đã trả
tiền cho phần mềm tạo môi trường ảo. Họ chấp nhận trả tiền cho việc hỗ
trợ và các tính năng giúp khai thác hiệu quả môi trường ảo hoá, nhưng
không chấp nhận việc trả tiền cho từng máy ảo.
Một số hãng PM đang cố tìm giải pháp dung hoà. Ví dụ,
Microsoft đưa ra phương thức bản quyền cho máy ảo sử dụng cái gọi là “thực
thể làm việc” để chỉ ảnh máy ảo, bản cài đặt hay bản sao của PM gốc. Thay
vì người dùng phải mua bản quyền cho mỗi thực thể, họ có thể tạo và lưu
trữ số lượng không giới hạn các thực thể nhưng chỉ trả tiền cho thực thể
nào làm việc trong thời gian nào đó.
Cần có sự thoả hiệp giữa hãng PM và người dùng để đi
đến giải pháp thích hợp, việc này có thể mất vài năm.
QUẢN
LÝ BẢN QUYỀN |
Mô hình tính phí PM theo mức sử dụng cần có
công cụ để người dùng “đo đếm” cái mà họ phải trả tiền. Hiện có
một loạt giải pháp cho phép doanh nghiệp kiểm soát chi phí PM.
Altiris License Compliance Suite
thu thập dữ liệu về tất cả ứng dụng Windows, giám sát mức sử dụng
từng ứng dụng và thông báo cho bộ phận IT khi số lượng cài đặt
vượt quá số bản quyền đã mua.
Black Duck Software protextIP
cho phép bộ phận pháp lý của công ty đánh giá các điều khoản bản
quyền và những tình huống tranh chấp, thiết lập chính sách sử
dụng bản quyền và điều chỉnh bản quyền.
BMC Software Usage thu thập
thông tin chi tiết về mức sử dụng và nơi PM cài trên các máy tính
để bàn và MTXT, tự động giới hạn việc sử dụng vượt quá bản quyền.
Computer Associates Unicenter Asset Management
giám sát việc sử dụng PM trên tất cả máy tính và thiết bị client,
tự động quản lý bản quyền và báo cáo.
Engagent Software License Manager
cho phép quản lý tổng thể các bản quyền đã cài đặt, bao gồm nơi
mua, khi nào, và bao nhiêu bản quyền đã được mua.
HP License Management Service
nhận diện PM được sử dụng ít hơn hay vượt quá giấy phép, những
chênh lệch so với hợp đồng bản quyền và ngăn việc sử dụng PM không
hợp lệ.
IBM Tivoli License Compliance Manager
liên kết thông tin kiểm kê và sử dụng PM với hợp đồng và chính
sách người dùng, hỗ trợ nhiều mô hình bản quyền khác nhau.
LANDesk Management Suite kiểm
tra cả ứng dụng đã biết lẫn chưa biết, tự động ngăn không cho
người dùng chạy PM có giấy phép hết hạn.
ManageSoft Compliance Manager
thiết lập thông tin kiểm kê PM ban đầu để làm cơ sở đánh giá mức
sử dụng PM.
Macrovision FLEXnet Manager
xác định tính hiệu lực của PM theo thời gian thực, cảnh báo những
vấn đề tiềm tàng và báo cáo về mức sử dụng.
Numara Track It! 7 Enterprise Edition
điều hoà giữa bản quyền đã mua và triển khai, giám sát việc xác
thực máy trạm để cho sử dụng PM, xử lý các bản quyền hết hạn và
sắp hết hạn.
Palamida IP Authorizer giúp
các nhóm phát triển PM trong doanh nghiệp tạo mã lệnh yêu cầu
xác thực bằng cách so sánh tự động tên và bản quyền PM với chính
sách IP của tổ chức.
Sassafras Software Key Server
phát hiện từng PM, sử dụng những quy tắc khác nhau để so sánh
việc sử dụng với các yêu cầu bản quyền, sau đó cho phép một số
hành động mặc định hay quản trị. |
Nguyễn Lê
Nguồn: InfoWorld |