(Post 10/10/2008) Các phần mềm phòng chống
virus dành cho người dùng gia đình hiện nay có khả năng bảo vệ máy tính
an toàn hơn trước các virus liên tục cập nhật không? Làm thế nào để quét
virus hiệu quả khi chúng lây nhiễm vào máy tính là những câu hỏi chúng
tôi thường xuyên nhận được từ bạn đọc. Thông tin trong bài viết được tập
hợp từ những kinh nghiệm thực tế, hy vọng giúp ích bạn đọc trong cuộc
chiến “dài hơi" chống virus.
Trong các bài viết liên quan đến virus chúng ta đã cùng
tìm hiểu nguyên nhân và cách khắc phục lỗi cụ thể do virus gây ra. Đây
chỉ là giải pháp tạm thời để xử lý “phần ngọn” chứ chưa giải quyết triệt
để vấn đề. Virus tiếp tục gây rắc rối nếu máy tính không được bảo vệ an
toàn hơn. Khi các biến thể virus mới xuất hiện, bạn đọc bối rối không
biết cách xử lý, thường chọn giải pháp "ưa thích" là format
ổ cứng và cài lại Windows. Thực tế cho thấy khi hệ điều hành trên máy
tính bị lây nhiễm virus, các phần mềm bảo vệ cũng bị vô hiệu hóa nên khả
năng phát hiện và làm sạch virus rất thấp. Trong trường hợp này, bạn nên
quét virus trong môi trường DOS hoặc PE (Preinstalled Environment) bằng
các đĩa “cứu hộ” như Hiren’s Boot CD, WinBuilder, Bart’s PE Builder, miniPE
mà chúng tôi đã đề cập trong bài viết trước.
1. Rút cáp mạng khỏi máy tính hoặc tắt
kết nối mạng không dây trước khi tiến hành quét để tránh trường hợp virus
lây nhiễm trở lại; thậm chí bạn sẽ được “khuyến mãi” vài loại virus mới
với khả năng phá hoại cao hơn. Ghi chú: không gắn cáp mạng trở lại máy
tính cho đến máy tính đã được “làm sạch”.
2. Khởi động máy tính và quét virus
bằng những phần mềm có sẵn trong đĩa “cứu hộ” hoặc flashdrive (đôi khi
bạn cần thiết lập để máy tính khởi động từ ổ CD-ROM hoặc nhấn phím tắt
để hiển thị tùy chọn khởi động từ các thiết bị phần cứng khác nhau). Với
Flashdrive, bạn cần kiểm tra trong BIOS Setup Utility xem bo mạch chủ
có hỗ trợ tính năng khởi động từ bút nhớ USB không (các bo mạch chủ xuất
hiện trong vài năm gần đây mới hỗ trợ tính năng này).
Hình
1 |
|
3. Xử lý các thay đổi do virus, spyware
gây ra. Đây là bước rất quan trọng để tránh virus tái nhiễm sau khi quét,
tuy nhiên nhiều bạn đọc thường bỏ qua bước này. Trường hợp “lý tưởng”,
các phần mềm chống virus phát hiện và gỡ bỏ hoàn toàn các tập tin, các
khóa (key) Registry, các thuộc tính bảo mật có liên quan đến virus nhưng
trên thực tế, bạn phải tự dọn dẹp các “tàn tích” của virus. Kết thúc quá
trình quét, phần mềm sẽ đưa ra báo cáo tổng kết những virus được phát
hiện và cách xử lý chúng (Hình 1). Nếu chương trình không thể diệt được
một vài loại virus nào đó, bạn thử diệt chúng một cách thủ công. Sử dụng
công cụ tìm kiếm với từ khóa là tên các virus đã phát hiện, bạn sẽ tìm
thấy những thông tin liên quan đến virus, cách xử lý chúng tại website
nhà sản xuất phần mềm phòng chống virus và cả những kinh nghiệm của bạn
đọc được chia sẻ trên các diễn đàn (forum).
Ghi chú:
- Nên “chọn mặt gửi vàng”, website nhà sản xuất phần mềm phòng chống
virus là nguồn thông tin tham khảo đáng tin cậy. Không nên tải xuống
phần mềm từ những website chưa được kiểm chứng độ tin cậy (vì có khả
năng đính kèm virus khác).
- Nếu không thể xóa các tập tin có liên quan đến virus trong Windows,
sử dụng các tiện ích có trong đĩa cứu hộ, chẳng hạn như Volkov Commander
(hỗ trợ phân vùng NTFS trong MS-DOS) để xóa.
Hình
2 |
|
4. Tắt System Restore. Mặc định trong
Windows ME và XP, tính năng này được kích hoạt để giúp bạn khôi phục hệ
thống khi gặp sự cố. Tuy nhiên, các phần mềm chống virus không thể quét
được thư mục System Volume Information, nơi System Restore lưu trữ những
tập tin, thư mục giúp khôi phục hệ thống. Để tắt System Restore trong
Windows XP, khởi động Safe Mode (nhấn F8 để vào giao diện tùy chọn khởi
động của Windows, chọn Safe Mode). Nhấn phải chuột trên My Computer, chọn
Properties. Trong cửa sổ System Properties, tab System Restore, đánh dấu
tùy chọn Turn off System Restore on all drives và nhấn OK.
HijackThis (find.pcworld.com/57267),
một tiện ích trợ giúp chống virus có khả năng xác định các tiến
trình đang hoạt động, khóa registry khởi động, nội dung folder
Startup, các BHO và các dịch vụ trong hệ thống. Tuy không có chức
năng kiểm tra, phát hiện sự lây nhiễm của virus như các chương
trình khác nhưng khi kết hợp HijackThis với các phần mềm chống
virus khác bạn sẽ “làm sạch” máy tính dễ dàng hơn. Ngoài ra, HijackThis
còn tạo một tập tin nhật kí hoạt động (log file) rất có ích khi
tìm kiếm sự giúp đỡ trên các diễn đàn. |
5. Cũng trong Safe mode, cài đặt và
quét bằng các phần mềm chống spyware như CounterSpy, Spybot Search &
Destroy, Ad-Aware 2007 Plus để không bỏ “lọt lưới” các virus mà phần mềm
chống virus chưa được phát hiện. Khác với các phần mềm chống virus, bạn
có thể cài đặt thoải mái các phần mềm chống spyware trên cùng 1 máy tính
để khai thác tính năng tốt nhất trong từng phần mềm mà không bị xung đột.
Tham khảo thêm các phần mềm chống spyware trong bài viết “Spyware, diệt!”
(ID: A0710_112). Kinh nghiệm thực tế, CounterSpy phát hiện thêm Trojan-Downloader.Agent.ikg,
Backdoor.Win32.Small.lu Backdoor... sau khi chúng tôi quét virus bằng
BitDefender Security v.10 lẫn Kaspersky Internet Security 7.0.0.125 (đã
cập nhật danh sách nhận dạng virus đến ngày 27/02/2008) ở chế độ full
system scan, deep scan lẫn rootkit (Hình 2).
6. Khởi động lại máy tính ở chế độ bình
thường, tiếp tục xử lý các thông báo lỗi của Windows. Thậm chí bạn phải
cài lại Windows với tùy chọn R (Repair) để Windows tự sửa lỗi. Việc này
cũng mất khá nhiều thời gian để máy tính hoạt động “gần như” bình thường.
Nếu có sao lưu hệ thống một cách đầy đủ, bạn có thể nhanh chóng khôi phục
hệ thống để quay trở lại công việc. Chúng tôi sẽ đề cập đến các bước sao
lưu khi có dịp.
7. Format ổ cứng và cài mới Windows.
Đây là lựa chọn cuối cùng trong trường hợp máy tính nhiễm virus, spyware
quá nặng và việc làm sạch và khôi phục hệ thống nằm ngoài khả năng của
bạn. Lựa chọn này sẽ tiết kiệm rất nhiều thời gian thay vì phải đi xử
lý từng sự cố do virus gây ra. Tuy nhiên, bạn phải cài mới HĐH và tất
cả những phần mềm cần thiết.
Đông Quân
(theo PC World VN) |