(Post 23/02/2009) Sự giao thoa của các nền
văn hóa cùng sự phát triển của kinh tế tri thức đã và đang đem lại cho
nền giáo dục của mỗi quốc gia những cơ hội mới. Nhân dịp năm mới, Tiền
& Hàng đã có cuộc trao đổi với TS. Lê Trường Tùng, Hiệu trưởng trường
Đại học FPT về vấn đề này.
Sinh viên
ĐH FPT trong một buổi hội thảo tại trường |
|
Ông nhận định như thế nào về những xu thế của nền
giáo dục đại học hiện nay trên thế giới? Liệu những dịch chuyển sâu sắc
của nền kinh tế Công nghiệp sang nền Kinh tế tri thức cùng những ảnh hưởng
của Toàn cầu hóa có gây nên những thay đổi tất yếu trong nền giáo dục?
Hiện nay, giáo dục đại học thế giới đang có những thay
đổi cơ bản. Đó là xu thế chuyển từ đại học tinh hoa dành cho số ít sang
đại học đại chúng dành cho đông đảo dân chúng – xu thế này được coi là
xu thế dân chủ hóa trong giáo dục đại học, chuyển giáo dục đại học từ
thượng tầng kiến trúc thành hạ tầng cơ sở của xã hội. Xu thế thứ hai liên
quan đến việc chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri
thức – đòi hỏi phải đào tạo ra lực lượng lao động chất xám đông đảo với
khả năng tư duy mềm dẻo, thích ứng được với sự thay đổi nhanh chóng của
xã hội chứ không phải học một lần, sử dụng kiến thức suối đời như trước
đây. Xu thế thứ ba là toàn cầu hóa, khi khoảng cách giữa các quốc gia
không còn nhiều ý nghĩa, dịch vụ giáo dục được xem là một lĩnh vực xuất
nhập khẩu quan trọng. Xu thế cuối cùng là ngày càng thể hiện rõ tính cạnh
tranh trong giáo dục đại học.
Những thay đổi này đang diễn ra ở quy mô toàn cầu, như
một xu thế tất yếu mà không quốc gia nào có thể đứng ngoài cuộc. Vấn đề
chỉ là sớm hay muộn, và làm thế nào để tận dụng được các mặt tích cực
và hạn chế các tác động tiêu cực kèm theo mà thôi.
Theo lộ trình gia nhập WTO, năm 2009, Việt Nam sẽ
chính thức mở cửa cho giáo dục và cho phép các trường đại học 100% vốn
đầu tư của nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Ông dự báo như thế nào về
những chuyển biến của ngành giáo dục Việt Nam trong bối cảnh này?
Từ ngày 1/1/2009, các trường đại học 100% vốn nước ngoài
sẽ được phép mở tại Việt Nam. Đây là cam kết quan trọng của chính phủ
3 năm trước đây khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO). Tôi cho rằng đây là một cam kết hết sức mạnh
bạo của Chính phủ với niềm tin vào việc mở cửa sẽ là cách thức nhanh chóng
nhất nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam - một lĩnh vực đã,
đang và sẽ góp phần quan trọng vào sự phát triển của đất nước.
Thực tế thì trong số 150 quốc gia thành viên chính thức
của WTO chỉ có hơn 40 quốc gia có cam kết mở cửa giáo dục, và trong số
này cũng chỉ có trên 20 quốc gia cam kết mở cửa giáo dục đại học mà thôi.
Bởi thế việc mở cửa ngoài các mặt tích cực sẽ kèm theo những hậu quả -
trong đó có việc tăng thêm khoảng cách giàu nghèo trong giáo dục đại học,
một số trường đại học Việt Nam yếu kém có thể sẽ không tuyển sinh được
phải đóng cửa, việc giáo dục các giá trị truyền thống Việt Nam trong môi
trường đại học quốc tế sẽ khó khăn hơn…
Tình hình suy thoái kinh tế chung hiện nay có lẽ sẽ làm
chậm vài năm tiến độ đầu tư của nước ngoài vào giáo dục đại học tại Việt
Nam, và dù đã mở cửa, việc mở ồ ạt các trường đại học nước ngoài tại Việt
Nam chắc sẽ chưa diễn ra ngay.
Như vậy liệu sẽ có một cuộc cạnh tranh quyết liệt
về chất lượng đào tạo để thu hút sinh viên?Và theo ông đâu sẽ là lợi thế
cho các trường đại học của Việt Nam?
Khi các trường đại học nước ngoài mở tại Việt Nam, việc
cạnh tranh để thu hút sinh viên sẽ trở nên gay gắt hơn rất nhiều. Lợi
thế cho các trường đại học Việt Nam trong cuộc cạnh tranh này là Việt
Nam nói chung vẫn chưa là đích đến của các trường đại học nước ngoài có
tên tuổi. Mức học phí cao của các trường nước ngoài tại Việt Nam cũng
là một rào cản lớn với đông đảo thí sinh. Việc nhà nước bù giá cho các
sinh viên trường công lập như hiện nay cũng tạo ưu thế cho các trường
công lập với gần 90% sinh viên đang theo học.
Trường Đại học FPT đã chuẩn bị những gì để đối mặt
với cuộc cạnh tranh này?
Chúng tôi đã nghĩ đến việc sẽ mở cơ sở đào tạo của trường
đại học FPT tại nước ngoài trong 10 năm tới – bởi thế việc cạnh tranh
với các trường quốc tế trong nước được xem như các thử sức bước đầu. Với
chương trình đào tạo, quy trình đạo tạo và môi trường đào tạo theo chuẩn
quốc tế, gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp, đặc biệt là được xây dựng
dựa theo các xu thế phát triển giáo dục đại học hiện đại – chúng tôi nghĩ
rằng Đại học FPT sẽ đủ sức cạnh tranh trong cuộc đua này.
Nhiều người dự đoán năm 2009 cũng là thời điểm mà
vấn đề “đào tạo theo nhu cầu xã hội” sẽ trở thành một trong những trọng
tâm cần phải thay đổi của ngành giáo dục. Là trường đại học đầu tiên do
một doanh nghiệp đứng ra thành lập, ông có thể chia sẻ những quan điểm
về việc thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu của doanh nghiệp,
tạo ra một “tam giác cân” giữa nhà trường – doanh nghiệp – sinh viên?
Tôi vừa tham gia một cuộc hội thảo, trong đó có có bàn
về vấn đề “đào tạo theo nhu cầu”. Một số đại biểu phê phán gay gắt quan
điểm đào tạo theo nhu cầu – xem như vậy là hạ thấp giá trị của giáo dục
đại học. Đây là những người tạm gọi là theo trường phái “đại học vị đại
học”. Tôi thuộc trường phái “đại học vị nhân sinh”, cổ vũ cho việc đào
tạo gắn kết với nhu cầu doanh nghiệp, còn nếu định hướng nghiên cứu thì
cũng phải theo hướng tạo ra các sáng chế có thể thị trường hóa được. Để
hài hòa, nên xây dựng hệ thống giáo dục đại học trong đó “đại học vị đại
học” chiếm phần nhỏ, còn phần lớn phải thuộc về “đại học vị nhân sinh”.
Hiện nay đáng tiếc là có xu hướng nước đôi, mặc dù cổ vũ cho “đại học
vị nhân sinh”, nhưng chính sách phát triển đại học lại theo trường phái
“đại học vị đại học” – chẳng hạn cứ đòi hỏi giảng viên phải có các loại
bằng cấp mà không coi trọng đến kinh nghiệm thực tế. Ngay một số trường
đại học của Mỹ đã phải khắc phục điểm yếu này bằng cách yêu cầu trong
dịp hè các giáo sư phải về công ty làm việc để có kinh nghiệm thực tế…
Để thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo và nhu cầu, theo
tôi cần có chính sách mạnh hơn để khuyến khích các doanh nghiệp mở trường
đại học, đồng thời cũng khuyến khích các trường đại học mở các doanh nghiệp
thuộc trường.
Đinh Tịnh
(Theo báo Tiền & Hàng – Thời báo Kinh tế Việt Nam) |