(Post 25/10/2006) Các bộ xử lý đa nhân, nền
tảng 64-bit x86, ảo hóa và còn nhiều xu thế công nghệ khác tác động đến
toàn ngành công nghệ thông tin.
Hệ thống
Trận chiến AMD-Intel hứa hẹn nhiều nhân hơn và server
sẽ "dày đặc" hơn. Chúng ta sẽ sớm chứng kiến sự xuất hiện các
chip 4 nhân (có thể vào cuối năm nay hoặc đầu năm 2007) và tiếp sau đó
là chip 8 nhân. Thiết kế đa nhân và nhiều tiến trình chạy đồng thời trong
mỗi xung nhịp cho phép chip xử lý làm việc với tần số xung thấp hơn, điều
này có nghĩa chip sẽ bớt nóng hơn và tiêu thụ ít điện năng hơn và đó chính
là mục tiêu của Intel. Trong khi đó, AMD chú trọng đến vấn đề kiểm soát
bộ nhớ, tuyến truyền (I/O bus) và liên lạc giữa các bộ xử lý.
Công nghệ 64-bit x86 được AMD giới thiệu từ năm 2004
bắt đầu "thu hoạch" với sự tham gia các hệ điều hành lớn như
Windows, Linux và Solaris. Cuộc đua ảo hoá trên nền x86 cũng bắt đầu tăng
tốc nhờ sự xuất hiện các phiên bản Windows XP và Windows Server 2003 64-bit
(x64 Edition). Nhiều ứng dụng Windows, gồm cả các ứng dụng của Microsoft,
chỉ có thể làm việc trong môi trường 32-bit. Việc ảo hoá giúp giả lập
môi trường này, cho phép các ứng dụng 32-bit làm việc, dù chậm.
Giải pháp ảo hoá x86 không phát triển do tốc độ xử lý
quá chậm vì chủ yếu dùng phần mềm "phân thân" một máy tính vật
lý thành nhiều hệ thống ảo độc lập. Sắp tới, với sự hỗ trợ tăng tốc phần
cứng từ các bộ xử lý x86 của Inel và AMD, vấn đề tốc độ sẽ được giải quyết
và ảo hóa có thể bước lên tầm cao hơn - ảo hóa cấp mạng.
Thông thường, khi mua một server mới, bạn cài đặt phần
mềm và ấn định vai trò cố định cho nó. Với giải pháp ảo hóa cấp mạng,
việc thêm 1 server mới sẽ bổ sung tài nguyên riêng của server này vào
nguồn tài nguyên của mạng để chung sức "gánh vác" tất cả các
tác vụ. Ngoài lợi ích về chia tải, việc cấp phát server cho các bộ phận
ở xa cũng đơn giản hơn vì server thật sự có thể đặt ở bất kỳ đâu. Ảo hóa
cấp cao này đã hiện thực với ESX Server và VirtualCenter của VMware.
Ảo hóa cũng có mặt trong lĩnh vực lưu trữ với thư viện
băng ảo hoá và LUN (Logical Unit Number). Hầu hết các hãng lớn đều có
cung cấp sản phẩm băng ảo, kết hợp tính năng sao lưu cơ bản với các tính
năng điều chuyển và bảo vệ dữ liệu. EMC có chiến lược ảo hóa lưu trữ mạng,
QLogic nhanh chóng tham gia cuộc chơi bằng việc mua lại nền tảng ảo hóa
và tăng tốc phần cứng của Troika, còn Network Appliance cũng giới thiệu
những khả năng ảo hóa cho các sản phẩm của mình.
Phần mềm
Với sự phổ biến của các bộ xử lý đa nhân, các công cụ
phát triển sẽ chú trọng hơn đến các vấn đề tiến trình (threading). Visual
Studio 2005 đã bổ sung thư viện OpenMP cho mục đích này. Ngoài ra, các
vấn đề phát triển nhóm và chất lượng chương trình cũng được chú trọng.
Ở cấp độ cao hơn, kiến trúc tích hợp ứng dụng hướng dịch
vụ (SOA) trở nên phổ biến. Dịch vụ web chín muồi và được chấp nhận. Nhiều
năm nay, IBM không công nhận ESB (Enterprise Service Bus) nhưng thực thế
thị trường đã chứng minh những lợi ích của việc thực hiện ESB, và giờ
đây toàn bộ thị trường middleware (phần mềm trung gian), có cảIBM, đang
chuyển sang mô hình ESB.
Trong lĩnh vực cơ sở dữ liệu, vấn đề được quan tâm hàng
đầu là mã hóa và kiểm soát dữ liệu. Công nghệ lưới (grid) tuy có phát
triển nhưng vẫn chưa thể phổ biến, có lẽ phải mất vài năm nữa trừ khi
công nghệ này tìm ra giải pháp khắc phục những hạn chế hiện tại như việc
chia sẻ tài nguyên và chia tải.
Dữ liệu được kiểm soát chặt chẽ hơn nhưng ngày càng "gần"
hơn với người dùng nhờ sự phát triển của công nghệ tìm kiếm desktop cho
phép dễ dàng khai thác thông tin trong hệ thống mạng công ty. Bước phát
triển tiếp theo sẽ đưa dữ liệu vào ngữ cảnh, cho phép tìm kiếm thông tin
hiệu quả hơn.
Bảo mật
Bảo mật tiếp tục làm vấn đề quan tâm hàng đầu của các
nhà quản lý CNTT. Sự bùng phát "phishing" (thư trộm), "spyware"
(phần mềm gián điệp), "identity theft" (đánh cắp thông tin nhân
thân)... đã dẫn đến nhu cầu kiểm soát các máy tính nối mạng công ty.
Kiểm soát truy cập mạng tiếp tục là tâm điểm của thị
trường với vô số giải pháp từ các hãng cung cấp. Bảo mật tại đầu cuối
và dùng thiết bị kiểm soát truy cập là các phương thức được lựa chọn của
cả các hãng kỳ cựu như Juniper và Symantec lẫn các hãng mới như ConSentry
Networks, Elemental Security và LockDown Networks.
Giải pháp phần cứng cho việc quản lý bảo mật cũng sôi
động, các hãng cung cấp thiết bị tường lửa (firewall) giờ đây có thêm
các tính năng IPS (Intrusion Prevention Systems) và các thiết bị IPS làm
việc giống như firewall và router. Giải pháp này thích hợp nhất cho những
môi trường mà ở đó có sự liên kết chặt chẻ giữa bộ phận điều hành mạng
và bộ phận bảo mật.
Sự nhận thức sẽ vẫn là một trong những vấn đề lớn nhất
cho việc thực hiện một chiến lược bảo mật: hầu hết khách hàng mua giải
pháp bảo mật với tầm nhìn ngắn hạn, nhằm "trị bệnh" chứ không
"phòng bệnh". Tuy nhiên trong nhiều tình huống thì đây là tất
cả những gì mà ngân sách cho phép.
Dĩ nhiên, tất cả các phương tiện đều vô ích nếu trước
hết qui tắc bảo mật cơ bản không được tuân thủ hay không có. Các nhà quản
lý CNTT cần tự vấn: Nếu những điều cơ bản còn không làm được thì có nên
tốn tiền cho các thiết bị hay không?
Nguyễn Lê
theo InfoWorld |