(Post 26/12/2006) Hơn một năm sau kể từ khi
John Doerr và Michael Moritz đầu tư 25 triệu USD vào Google, họ đều cho
rằng Sergey Brin và Larry Page đã không giữ lời hứa tuyển dụng một giám
đốc điều hành. Hai công ty tài chính có thể đòi trả lại họ tiền đầu tư,
điều này có thể làm hỏng danh tiếng lẫn tài chính của Google.
Hình thành
bộ ba Larry Page, Eric Schmidt và Sergey Brin (từ trái sang):
kiềng thêm vững - Ảnh: tư liệu |
|
>> Kỳ 1: Quan
tâm tới điều không thể
>> Kỳ 2: Công ty Google
>> Kỳ 3: Chinh phục thị trường
>> Kỳ 4: Bắt tay "ông lớn"
Bộ đôi thành bộ ba
Tháng 12-2000, Doerr tiến cử Eric Schmidt vào chức giám
đốc điều hành (CEO). Trong khi Brin và Page đã cam kết sẽ tuyển một người
họ thông qua làm giám đốc điều hành, Doerr bắt đầu cảm thấy ông không
thể tìm ra ai đủ điều kiện thỏa mãn yêu cầu hai chàng trai này. Họ đã
loại hết ứng viên này tới ứng viên khác.
Lý do là Brin và Page cho rằng họ vẫn là người nắm quyền
kiểm soát Google, chứ không phải một giám đốc điều hành mới do Doerr chỉ
định, được tuyển dụng từ bên ngoài và tạo sức ép cho họ. Họ cố làm cho
các ứng viên do Doerr giới thiệu cảm thấy nhụt chí không muốn làm việc
với hai bọn họ nữa. Nhưng với Schmidt thì khác. Ông có bằng tiến sĩ tin
học tại Trường đại học California ở Berkeley, bằng thạc sĩ điện tại Trường
đại học Princeton, đã thuyết phục được hai chàng trai trẻ.
Khi Google ngày càng phát triển, vai trò của Doerr trong
việc khuyến khích Page và Brin tuyển dụng Schmidt ngày càng tỏ rõ. Hai
chàng trai Google lĩnh hội những chỉ dẫn cần thiết để điều hành một công
ty tư nhân phát triển theo phong cách chuyên nghiệp, trong khi vẫn giữ
được tính sáng tạo và văn hóa công ty họ theo đuổi. Cuối cùng, Schmidt
cũng đã đi đến thỏa thuận với Brin và Page vào tháng 1-2001 và hợp đồng
được ký kết sau đó hai tháng. Họ đã chấp nhận một trật tự dị thường: cả
ba người đều đứng đầu.
Nhiều nhà giáo dục vẫn chưa thống nhất với
nhau về vấn đề giá trị của Google. Một số cho rằng Google làm
học sinh lười biếng hơn vì Google là nguồn để cho học sinh, sinh
viên sao chép tài liệu của người khác. Google gây cản trở việc
học hành của sinh viên vì chỉ cần một cái bấm chuột các sinh viên
có được tất cả những điều họ cần. Chính vì vậy nên họ không muốn
tìm tòi suy nghĩ.
Tuy nhiên, nhiều người khác lại đánh giá cao
lợi ích của Google. Nếu không có Google, nhiều người nói rằng
giống như họ bị mất chân mất tay, mất thời gian nhiều, mất công
sức không đáng có. Họ cho rằng Google cho phép người sử dụng có
thể tìm kiếm được các tài liệu gốc và các bài phân tích bất cứ
thời gian nào. Họ còn lập luận rằng Google làm giảm sự khác biệt
về thân thế của sinh viên, học sinh dù là trường của họ to hay
nhỏ, dù họ giàu hay nghèo, dù họ có được tiếp cận với thư viện
lớn hay không. Họ ủng hộ mục đích tiếp cận thông tin bình đẳng
cho tất cả mọi người. |
Một bộ ba hình thành được ví là “kiềng ba chân”. Và cũng
kể từ đó, Google ghi tiếp những kỷ lục mới. Sau khi mở thêm chức năng
tìm ảnh, ngày 1-4-2004 bộ ba Google tung ra một tin “nổ bom tấn” làm mọi
người tưởng là chuyện cá tháng tư nhưng hóa ra lại là sự thật: hệ thống
thư điện tử Gmail.
Dung lượng lưu trữ của Gmail lớn hơn gấp 500 lần dung
lượng dự trữ miễn phí của Microsoft và gấp 250 lần dung lượng miễn phí
của Yahoo. Dung lượng 1 gigabyte là cực lớn nên Google thông báo cho người
sử dụng dịch vụ Gmail biết rằng họ sẽ không bao giờ phải xóa bỏ các thư
điện tử cũ. “Bom tấn” với dịch vụ thư điện tử Gmail có dung lượng cực
lớn khiến các “ông lớn” về email như Yahoo và Microsoft sau đó phải chạy
theo cung cấp email dung lượng lớn miễn phí cho người dùng.
Sau đó, Google tiếp tục đưa ra “món” Tin tức Google và
Google Alerts - dịch vụ thông báo tin tức tự động cho người tìm kiếm các
chủ đề quan tâm cụ thể thông qua thư điện tử. Có hàng triệu người đăng
ký sử dụng dịch vụ thông báo vì dịch vụ này đã đem lại lợi ích cho những
người quan tâm tới một công ty, tổ chức, cá nhân hay chủ đề tin tức nào
đó.
Khi đưa dịch vụ quảng cáo và tìm kiếm của mình lên các
trang web của tờ New York Times, trang Amazon.com và các trang đông người
truy cập khác thì nền kinh tế Google đã tạo được đà phát triển mạnh mẽ
với việc mở rộng các trang web để đăng quảng cáo, tăng thêm những công
ty muốn đấu thầu những khu vực quảng cáo đó và làm tăng số tiền mà họ
sẵn sàng bỏ ra để được quảng cáo. Nền kinh tế Google cũng có tác dụng
tự thúc đẩy phát triển: càng có nhiều người sử dụng máy tính bấm chuột
vào các quảng cáo của Google thì các chủ của các trang web càng kiếm được
thêm nhiều tiền. Họ càng kiếm được nhiều tiền thì các website khác lại
càng muốn đưa dịch vụ tìm kiếm Google và công nghệ quảng cáo vào các trang
quảng cáo của họ. Mạng lưới càng phát triển mạnh thì Google càng khó bị
các đối thủ khác đánh bại.
Người sử
dụng Google mong muốn "người khổng lồ" này đừng lặp
lại hình ảnh của các "đế chế" khác: "Google - đừng
là quỉ dữ"- Ảnh tư liệu |
|
Google toàn cầu
Đến năm 2003, có hàng chục triệu người hằng ngày thường
tìm kiếm thông tin trên Google bằng ngôn ngữ bản xứ của họ. Họ có thể
lựa chọn trong danh sách có tới gần 100 ngôn ngữ. Họ tìm kiếm trên Google
mọi thứ từ các thành phần cần thiết cơ bản cho một món ăn đến việc mua
bán nhà cửa, giáo dục, giải trí và tất nhiên là cả tình dục.
Trên khắp thế giới, từ những nhà kinh doanh cho tới các
nhà đầu tư và các luật sư của họ đều sẽ nghĩ rằng họ thật khờ khạo nếu
như làm ăn với một đối tác nào đó mà không tìm hiểu về đối tác thông qua
Google. Các tác giả viết sách đều tìm thông tin và các nguồn tài liệu
nhanh chóng bằng cách sử dụng Google. Các quan chức cấp cao trong chính
phủ sử dụng Google để tự mình tìm các tài liệu mà không cần đến người
phụ giúp.
Khi nhà khoa học gặp phải một vấn đề khó khăn nào đó
trong việc xác định loại gen thì họ nhờ đến sự trợ giúp của Google để
tìm hiểu mã gen và để khám phá những mối liên hệ mà họ không biết. Thanh
thiếu niên có thể tìm các lời bài hát ưa thích đơn giản nhất thông qua
Google... Theo tạp chí Wired, trong số những người giàu và người nổi tiếng
đã xuất hiện một lớp người đặc biệt thường xuyên sử dụng Google. Họ được
gọi là “các chuyên gia sử dụng Google”. Họ có thể tìm thông tin về chính
bản thân họ hoặc là cập nhật tin tức và họ cũng có những cách thức tìm
kiếm rất thú vị để giúp họ làm việc và thư giãn.
Không một thương hiệu nào được toàn thế giới biết đến
nhanh hơn Google. Tên của Google trở thành từ vựng thường dùng không chỉ
bằng tiếng Anh mà còn xuất hiện trong cả các thứ tiếng khác, ví dụ: tiếng
Đức có “googelte”, Phần Lan có “googlata” và Nhật Bản là “guguru”. Thời
kỳ hoàng kim của máy bay phản lực xuất hiện từ những năm 1960, cùng với
sự phát triển mạnh của điện thoại quốc tế giá rẻ trong mấy năm gần đây
giờ đã phải nhường chỗ cho Google cùng các công cụ tìm kiếm khác. Sự xuất
hiện của Google cùng các công cụ tìm kiếm sẽ xóa bỏ được khoảng cách địa
lý vốn là rào cản đối với vấn đề giao tiếp và giao thương. Từ ở gia đình
hay văn phòng, người ta có thể giao tiếp với những người hoàn toàn xa
lạ ở bên kia bán cầu và truy cập thông tin qua Google để biết về đời tư,
hình dáng của họ qua công cụ tìm kiếm hình ảnh của Google, tìm kiếm số
điện thoại và trang web của họ, xem ảnh của gia đình họ qua các hình ảnh
vệ tinh.
Cuối năm 2003, khái niệm nền kinh tế Google trở nên phổ
biến. Google đã có quá nhiều ảnh hưởng đến cuộc sống con người, “đế chế
kinh tế” Google ra đời có vai trò tài chính mạnh chỉ trong một thời gian
ngắn. Tuy nhiên, nếu chỉ có Google làm giàu thành công và lan tỏa sức
ảnh hưởng mà gọi đó là nền kinh tế Google thì chưa đủ, vấn đề quan trọng
là đã có rất, rất nhiều người cũng đang dựa vào nền kinh tế Google để
tìm kiếm lợi nhuận.
DAVID VISE và MARK MALSEED
(Khánh Chi dịch - theo Tuổi Trẻ)
Larry và Sergey đã trì hoãn việc cổ phần hóa Google đến
mức có thể, nhưng thời hạn chót vào cuối tháng 4-2004 đã đến. Tờ Newsweek
viết: “Đợt phát hành cổ phiếu được chờ đón nhất trong thế kỷ đã diễn ra”.
Đón đọc kỳ tới: Cổ phần hóa |