(Post 24/07/2007) Số vụ tấn công giảm nhưng
các cuộc tấn công ngày càng có chủ đích và nghiêm trọng hơn. Khảo sát
của InfoWorld cho thấy sự khủng hoảng niềm tin trong giới chuyên gia bảo
mật CNTT.
Khó tìm được ví dụ nào tốt hơn về sự khủng hoảng của
giới CNTT như trường hợp của Brent Oxley, chủ nhân của công ty dịch vụ
hosting HostGator: các website khách hàng của công ty anh bị chuyển hướng
đến các địa chỉ web “đen” và thả virus lên máy tính của người dùng cuối.
Mỗi khi nhân viên của Oxley “tẩy” sạch một máy tính thì một máy khác trong
mạng lại bị “dính đòn”. Oxley như bị mắc kẹt trong trò chơi trốn tìm,
đồng thời phải lo xoa dịu sự tức giận của khách hàng và người dùng cuối.
Chiều hướng xấu
Theo khảo sát của InfoWorld, chỉ có phân nửa số người
phụ trách vấn đề bảo mật cho các công ty cảm thấy “hơi tự tin” vào hệ
thống bảo mật của công ty mình. Sự gia tăng của malware và phishing đã
gây nên tâm lý “rụt rè” này.
Nếu năm 2005 ghi nhận việc các tay hacker trẻ tuổi ham
vui nhường chỗ cho các tội phạm chuyên nghiệp, thì năm 2006 cho thấy mức
độ nguy hiểm của tội phạm có tổ chức. Phần mềm phá hoại (malware) sắc
sảo hơn và khó phát hiện hơn, luồn sâu hơn vào hệ điều hành và các ứng
dụng để lục lọi thông tin nhạy cảm. Thậm chí công cụ tạo malware và phishing
còn được rao bán trên mạng. Bọn tội phạm thường “trắng trợn” đề nghị đảm
nhận việc bảo mật cho công ty có hệ thống mạng bị tấn công, dĩ nhiên là
có phí. Không chỉ các công ty lớn mà cả các công ty nhỏ cũng bị tấn công.
Cuộc tấn công vào HostGator có nhiều dấu hiệu đặc trưng
của các mối đe dọa bảo mật ngày càng tinh vi hiện nay, và chủ yếu khai
thác các lỗ hổng bảo mật trong Windows và các ứng dụng. Điều này phản
ánh trong kết quả khảo sát: 51% người tham gia cho rằng mức độ tinh vi
ngày càng tăng của các cuộc tấn công là thách thức hàng đầu cho vấn đề
bảo mật, trong khi đó 50% cho rằng Trojan, virus và các loại mã độc khác
là mối đe doạ hàng đầu cho bảo mật mạng.
Theo Eric Sites, phó chủ tịch bộ phận R&D của Sunbelt
Software, những năm trước đây Trojan thường nạp đầy máy tính các phần
mềm quảng cáo được viết rất kém vì vậy dễ làm treo máy. Chúng gây phiền
toái nhưng không là gì so với malware hiện nay: đánh cắp password, gửi
spam và gia nhập mạng lưới phá hoại. Vấn đề càng tồi tệ hơn: bọn tội phạm
đã bắt đầu tổ chức “chợ ảo” để buôn bán password và những thông tin khác
thu thập được qua malware.
Số lượng giảm, độ nghiêm trọng tăng
Các chuyên gia bảo mật thông báo mức giảm khiêm tốn số
cuộc tấn công trên mạng của họ trong 12 tháng qua, trung bình mỗi công
ty bị 331 cuộc tấn công thăm dò và 39 cuộc thành công. Có cải thiện so
với trung bình 368 cuộc thăm dò và 44 cuộc thành công ghi nhận được trong
khảo sát năm rồi.
Tuy nhiên điều này không chứng tỏ rằng mạng an toàn hơn
– theo Jon Ramsey, giám đốc kỹ thuật của SecureWorks, công ty chuyên giám
sát các cuộc tấn công trên Internet. Mặc dù số lượng cảnh báo tính chung
giảm, nhưng số cuộc tấn công nghiêm trọng đang tăng nhanh. Lý do số cuộc
tấn công giảm theo lập luận của Ramsey đáng lo ngại: các tay hacker vì
động cơ lợi nhuận không muốn phí thời giờ hoặc đã sử dụng những kỹ thuật
tinh vi hơn.
Trong số các cuộc tấn công thành công, cách thức phổ
biến nhất là giả mạo "nhân dạng" của một công ty để lừa khách
hàng - kỹ thuật tấn công phishing thông dụng. Việc này không có gì ngạc
nhiên vì chỉ cần 50USD người ta có thể mua được “đồ nghề” phishing cung
cấp sẵn các trang mẫu làm giả cả những website ngân hàng lớn. Tình hình
càng xấu hơn, phishing thoạt đầu chỉ nhắm đến các công ty lớn như eBay,
giờ đây đe doạ cả những công ty nhỏ.
Năm nay là năm thứ hai liên tiếp ghi nhận sự sụt giảm
số cuộc tấn công thành công khai thác lỗ hổng của các hệ điều hành. Chỉ
có 23% số người tham gia khảo sát cho biết bị đột nhập, so với 24% của
năm 2005 và 40% của năm 2004. Tương tự, các báo cáo về những vụ tấn công
khai thác điểm yếu của các ứng dụng web, router và các thành phần khác
của hạ tầng mạng đều giảm hoặc bằng với năm rồi.
Theo John Pescatore, phó chủ tịch về mảng bảo mật Internet
của Gartner, thì các hãng cung cấp phần mềm dường như cũng nhận thức được
rằng doanh nghiệp đánh giá cao tính năng bảo mật của sản phẩm mà họ muốn
mua, vì vậy ngày càng có nhiều hãng áp dụng việc kiểm tra lỗ hổng bảo
mật trước.
Hiểm họa bên trong
Do hấp lực của đồng tiền, nhân viên trong công ty có
thể trở thành mối đe dọa nếu công ty không có kế hoạch bảo mật cẩn thận.
Có 42% người tham gia cho biết công ty của họ không có chính sách bảo
mật bằng văn bản rõ ràng (có cải thiện chút ít so với 46% của năm rồi).
Thật đáng lo khi 18% của nhóm có chính sách bảo mật lại
không huấn luyện nhân viên của mình cách thức thực hiện. Pecastore cho
rằng tuy việc thực hiện chính sách bảo mật tốn nhiều công sức nhưng không
quá tốn kém, và cho biết trên website của SAN Institute (www.sans.org)
cũng có cung cấp miễn phí bản thảo về chính sách bảo mật.
Việc không thực hiện hay bắt buộc nhân viên tuân thủ
chính sách bảo mật lý giải cho danh sách dài sọc các tin nổi bật liên
quan đến việc xâm phạm thông tin cá nhân trong năm qua. Một trong những
vụ nổi tiếng đó là chiếc máy tính xách tay chứa thông tin mật liên quan
đến khoảng 26,5 triệu cựu quân nhân ở Mỹ bị trộm tại nhà của một nhân
viên thuộc Văn phòng cựu quân nhân. Vấn đề đáng nói là nhân viên này không
được phép mang dữ liệu về nhà.
Sự việc cho thấy ngay cả khi có chính sách bảo mật nghiêm
ngặt thì việc buộc nhân viên tuân thủ cũng không phải dễ. Việc này được
củng cố qua số liệu khảo sát của Infoworld: chỉ có 55% người tham gia
cho biết có triển khai phần mềm mã hoá trên PC và thiết bị cầm tay - một
biện pháp có thể bảo vệ dữ liệu khi rơi vào tay kẻ xấu.
Mối đe dọa từ nhân viên thật sự là nỗi lo của các chuyên
gia bảo mật, 56% cho rằng đây là thách thức quan trọng cho việc bảo mật.
Có người còn đặc biệt lo ngại về nguy cơ của “kỹ thuật tâm lý”: tội phạm
có thể dụ dỗ hay thông qua người thân của nhân viên để moi thông tin mật.
Xếp
hạng các mối đe dọa đối với bảo mật mạng |
Trojan, virus, sâu và các loại mã độc
khác |
50% |
Spyware |
45% |
Spam |
44% |
Lỗi của nhân viên (vô tình) |
39% |
Lỗi của ứng dụng |
37% |
Dữ liệu bị nhân viên hay đối tác đánh cắp |
37% |
Hacker |
36% |
Phá hoại nội bộ |
30% |
Mạng không dây |
30% |
Triển khai công nghệ mới (VD: mạng không
dây, truy cập từ xa) |
27% |
Lỗi của đối tác (vô tình) |
24% |
Thiết bị di động (PDA, smartphone) |
24% |
Tin tặc thông thường (không thuộc loại đối
thủ, khủng bố trên mạng, nhân viên hay đối tác) |
20% |
Khủng bố trên mạng |
19% |
Không thể đáp ứng yêu cầu bắt buộc của chính
phủ |
16% |
Dọ thám của đối thủ cạnh tranh |
15% |
Giám sát nhân viên
Các công ty hiện đang tìm giải pháp chống lại nguy cơ
nhân viên đánh cắp dữ liệu. Cùng với các phần mềm chống virus, firewall
và VPN vốn đã được dùng nhiều năm nay để ngăn chặn tin tặc, các chuyên
gia CNTT giờ đây còn cần thêm sản phẩm giúp bảo toàn thông tin. Có 24%
chuyên gia bảo mật tham gia khảo sát cho biết họ đã triển khai các giải
pháp giám sát nhân viên, 8% khác cho biết có kế hoạch đề xuất hệ thống
như vậy trong năm tới, 44% có giám sát hay lọc email đi ra ngoài, 8% nói
sẽ bắt đầu thực hiện như vậy trong 12 tháng tới.
Ví dụ, Jim Brockett, CIO của Washington Trust Bank, đã
sử dụng một dịch vụ giám sát của công ty NexSentry để bảo vệ dữ liệu khỏi
bị nhân viên đánh cắp. Dịch vụ này thông báo cho anh mỗi khi có nhân viên
sao chép thông tin từ ứng dụng được bảo vệ (như cơ sở dữ liệu ngân hàng)
và dán vào ứng dụng không được bảo vệ (như trình duyệt web hay trình email).
Giải pháp này cũng ngăn chặn việc sử dụng bút nhớ flash và các thiết bị
USB không được phép khác.
Khi được sử dụng đúng, công nghệ truyền thống cũng có
thể cung cấp những vũ khí quan trọng cho cuộc chiến bảo mật. Nhưng những
người tham gia khảo sát cho biết họ cần những công nghệ mới có thể làm
được nhiều việc hơn ngoài việc quét tìm mã độc hay phát hiện tấn công
thăm dò. “Chúng ta cần chuyển sang hình thức giám sát theo hành vi, chẳng
hạn việc máy tính được kích hoạt lúc 3 giờ sáng để gửi email”, theo Dave
Rand, giám đốc kỹ thuật phục trách mảng bảo mật nội dung Internet của
Trend Micro.
Giả sử các nhà cung cấp giải pháp bảo mật có thể phát
triển những sản phẩm tinh vi như vậy thì liệu chúng có được chấp nhận
trong thị trường đã đầy các giải pháp bảo mật đắt tiền. Theo khảo sát,
chỉ có 35% người tham gia hy vọng ngân sách bảo mật của họ được tăng lên
vào năm sau.
HostGator đáp trả
Trở lại với trường hợp của HostGator, Oxley và cộng sự
của mình cuối cùng đã phát hiện tin tặc xuyên thủng hàng rào phòng vệ
thông qua một lỗ hổng trong ứng dụng quản lý website. Sau khi vào được
bên trong, tin tặc sử dụng các máy chủ của HostGator làm bàn đạp để khai
thác một điểm yếu khác và sau đó lây nhiễm hơn 200 máy chủ phục vụ cho
500.000 domain do HostGator quản lý (chúng cũng nhắm đến ít nhất 2 dịch
vụ host khác, theo Oxley).
Mặc dù vụ việc cuối cùng đã được giải quyết, nhưng Oxley,
cũng như nhiều người khác, vẫn lo ngại: “Rất có khả năng vào một buổi
sáng nào đó, chúng ta thức dậy và chứng kiến một cuộc tấn công làm tê
liệt tất cả các công ty hosting”.
Những
thách thức hàng đầu đối với bảo mật |
Nhân viên đánh giá thấp mức độ quan trọng
của chính sách bảo mật |
52% |
Mức độ tinh vi ngày càng tăng của các cuộc
tấn công |
51% |
Lãnh đạo công ty đánh giá thấp mức độ quan
trọng của chính sách bảo mật |
44% |
Ngân sách dành cho việc mua sắm công cụ
bảo mật cần thiết quá ít |
40% |
Việc gia tăng mức độ phức tạp của các giải
pháp bảo mật |
39% |
Việc gia tăng số lượng và mức độ phức tạp
của dữ liệu lưu thông trong mạng |
39% |
Thiết bị không được quản lý và người dùng
di động |
37% |
Mạng luôn hoạt động |
35% |
Bản chất chắp vá của bảo mật mạng |
34% |
Cho phép sử dụng thiết bị không dây trong
công ty |
33% |
Quản lý cấu hình mạng |
31% |
Không có chuyên gia bảo mật trong công ty |
30% |
Khó khăn trong việc bảo mật ứng dụng web |
28% |
Tích hợp phần mềm của hãng thứ 3 vào môi
trường mạng công ty |
27% |
Tuân theo các quy tắc bảo vệ riêng tư và
bảo mật của quốc gia |
25% |
Cho phép “chat” trong công ty |
24% |
Khủng bố trên mạng |
20% |
Thuê ngoài bảo mật |
11% |
Nguyễn Lê - nguồn: InfoWorld
(theo PC World VN) |