Mềm mãi mà không cứng - Nguyễn Thành Nam (phần 4)  
 

Chương 4: Diệt phát xít

Việt nam bao năm ròng rên xiết lầm than
Dưới ách quân tham tàn đế quốc sài lang

Bây giờ tôi nghĩ chúng ta vẫn chưa qua được cái hạn "rên xiết lầm than" dưới sự bóc lột ngày càng tinh vi hơn của các cường quốc ngoại bang. Bởi thế tôi muốn dành một ít tâm sự cho chương "Diệt phát xít" nói về các hợp đồng mà chúng ta đã làm với các khách hàng là đối tác nước ngoài. Trong chuyến đi gần đây nhất sang Singapore, tôi được nói chuyện với Giám đốc của hãng ISIS, một hãng phần mềm nhỏ nhưng rất chuyên về communication trên AS/400 của Singapore. Thật tình cờ nhưng con đường ông ta đã đi từ đầu năm 80 khá gần với cái chúng ta đang làm. Một trong những bài học của ông là "lấy Tây đánh Ta". Ông ta nói, ban đầu không ngân hàng Singapore nào chịu chấp nhận công nghệ của ông cả. Ông ta bèn quay sang dùng mọi cách để cưa đổ Standard Chatered Bank tại Singapore, và dùng họ như một điểm reference, sau đó là các Ngân hàng địa phương mới chịu lần lượt quy phục.

Công lớn trong công cuộc diệt phát xít này là anh Lê Tấn Lộc, lúc đang chức tại Ngân hàng Công thương. Năm 1990, nhờ có liên doanh giữa Ngân hàng Công thương và Indonexia, anh đã học được đôi chút kinh nghiệm đánh Tây. Giữa năm 1992, từ HCM anh gọi ra cho tôi, thông báo với giọng cực kỳ sung sướng: "Nam ơi, thắng đậm rồi". Đó là anh nói đến việc thuyết phục được chi nhánh Ngân hàng BNP (Banque National de Paris) tại HCM sử dụng chương trình của Việt nam. Cái giá 16.000 USD lúc đó có một ý nghĩa khác xa bây giờ. Theo lời mời của anh Lộc và anh Châu, chúng tôi gồm có Nam, Thành, Phương bay vào HCM để trực tiếp tham gia vào đề án. Thành và Phương còn tiện thể tham gia thực hiện hợp đồng cho EximBank và VietsoPetro.

Lại quay về đánh Tây. Đội bạn cử một đoàn từ Singapore sang để thẩm định và đặt yêu cầu, có cả Tàu, Pháp. Phải nói rằng tiếng Anh của tôi lúc đó phọt phẹt kinh khủng. Không ngờ gặp bác Lộc cũng chẳng hơn gì. Thế nhưng có vẻ như anh hiểu hết bọn nó và luôn mồm "No problem", bọn kia khoái lắm, chắc là lần đầu tiên gặp phải thằng bán hàng mà cái gì cũng làm được. Chúng gọi luôn anh Lộc là Mr. No Problem. Lần đó, nhân một lần đội bạn mời đi ăn, tôi còn phát hiện ra Mr. Lộc có biệt tài nói tiếng Anh suốt buổi mà chỉ cần khoảng 20 từ. Phải nói là lần nào cùng làm việc với anh tôi cũng học thêm được nhiều thứ.

Đội ta ngoài tôi làm thiết kế và tài liệu và Phương làm về security, còn có anh Lộc, Bùi Văn Dũng, Tuấn, Lợi và Mrs Trâm. Sau khi thực hiện HĐ xong, Mrs Trâm được tổ chức phân sang hẳn bên BNP làm việc để bảo hành chương trình luôn. Bùi Dũng bây giờ ở IndoVina, vẫn hợp tác với FSS thường xuyên, Tuấn là cán bộ lập trình chủ chốt của Ngân hàng Công thương lúc đó, hiện là phụ trách máy tính của Ngân hàng Công thương Khu vực II. Lợi con đang là giám đốc BitCo, một công ty chuyên về mạng ở HCM. Tay này trước đi thi Lý quốc tế, rất thích làm về các vấn đề mạng. Chính hắn đã dựng nên mạng diện rộng không dây đầu tiên, nối tất cả 14 chi nhánh của Ngân hàng Công thương thành phố Hồ Chí Minh. Mạng đã hoạt động được một thời gian, sau phải ngưng vì bên cung cấp là một công ty củ chuối không có khả năng cung cấp các thiết bị thay thế. Năm 1992, khi thiết kế chương trình liên hàng cho Ngân hàng Công thương, sau khi khảo sát một số chi nhánh, tôi với Lợi đã ấp ủ ý định làm lấy một chương trình truyền tin của mình. Thậm chí đã viết một số thiết kế. Có thể nói đó là những ý đồ đầu tiên của TTVN bây giờ. Lúc đó Đình Anh vẫn còn đang thực tập và vật lộn với những số dư và tài khoản. Nếu quyết tâm biết đâu TTVN bây giờ đã trở thành CompuVietnam rồi?

Sau gần 1 tháng cọ xát với đội bạn, chúng tôi đã thực sự hấp thụ được một cách làm việc bài bản. Nhất là tài liệu. Niềm tự hào nhất của anh Lộc lúc đó và FIBI sau này là 4 tập hồ sơ dày cộp về chương trình SIBA cho BNP. Trong đó có tập Data Dictionary là tập đáng quý nhất, mô tả toàn bộ các trường dữ liệu của chương trình.

Một bài học nữa là khả năng tìm lỗi. Đội bạn cử hẳn một mẹ Tàu để test chương trình của ta. Lúc đó tôi và Dũng Bùi cũng đã làm việc rất cẩn thận thế mà mẹ đó cứ ngồi vào là đỏ lòm màn hình. Chúng tôi rất lấy làm khâm phục. Võ này sau tôi cũng dùng được nhân một lần Tú Huyền thách tìm lỗi chương trình 5000 đồng/lỗi. Trong có 5 phút tôi đã tìm được 3, 4 lỗi. Tú Huyền phải tuyên bố sập tiệm. Test chương trình cũng là một nghệ thuật đáng phải học không kém gì lập trình nếu bạn làm chương trình thương mại chứ không phải đồ án tốt nghiệp. Người test bắt buộc phải là người có cái nhìn xuyên suốt toàn chương trình chứ không locate ở từng menu nhỏ.

Thời điểm này cũng có thể coi là thời điểm ra đời của chương trình SIBA, có lẽ là một trong những chương trình phần mềm thành công nhất về mặt thương mại ở Việt nam. Chính xác hơn là quãng tháng 4/1992. FIBI đang ở trong giai đoạn thành lập. Do có mật báo của Ngân hàng, chúng tôi được biết Văn phòng cộng đồng châu Âu EC tại Việt nam đang gọi thầu một chương trình quản lý tín dụng nhằm quản lý việc cho vay từ quỹ EC cho các thuyền nhân Việt nam hồi hương. Tôi phải bay vào HCM để bàn. Không biết anh Lộc moi từ đâu ra được bộ tài liệu chào thầu của một Hãng phần mềm Thái lan. In ấn rất đẹp và chuyên nghiệp. Nhờ nó mà chúng tôi biết được rằng muốn có một bộ hồ sơ chào thầu, chương trình chúng tôi phải có một cái tên. Như trên đã nói, tôi mới tìm hiểu về Ngân hàng từ năm 1991 nên có thể coi là còn non. Nhưng không hiểu sao, anh Lộc tỏ ra rất tin cậy, có lẽ vì thấy tôi một mình xoay xở được với Ngân hàng Hàng hải mà không phải gọi hắn. Hôm đó hai anh em quyết định phải nghĩ cho bằng được một cái tên. Trên tầng 2, trụ sở Ngân hàng Công thương HCM, Mr. Lộc đi đi lại lại mồm tuôn ra những chữ tiếng Anh còn tôi thì ghi lại và ghép các chữ xem chữ nào hay nhất. Sau một lúc chỉ còn vài chữ Banking, Integrated, Software, Solution, Application, System. Các chữ cái lơ lửng. Bất giác tôi nhớ đến bộ phim mới xem trên truyền hình "Nữ hoàng Siba" nói về thời văn minh Ai cập. Chữ SIBA được anh Lộc nhất trí tức thời vì rất hợp với những chữ đã được lựa chọn. Sau này tôi có kể lại cho anh Lộc chữ SIBA từ đâu ra, anh có vẻ hơi bất mãn vì lại là tên đàn bà. Tuy nhiên cũng chẳng sao, vẫn bán được.

Lại nói về chương trình của EC. Hẳn mọi người còn nhớ, vấn đề thuyền nhân Hong Kong là vấn đề nóng bỏng của Việt nam trên trường quốc tế trong những năm đầu 1990. Cộng đồng châu Âu quyết định viện trợ cho Việt nam một số tiền lớn để hỗ trợ những người hồi hương và những cơ sở tạo công ăn việc làm cho họ. Hình thức thực hiện là cho vay lãi suất nhẹ thông qua các ngân hàng Công thương và Nông nghiệp Việt nam. Tại thời điểm đó, các Ngân hàng Việt nam hầu như chưa triển khai bất cứ một chương trình phần mềm quản lý tín dụng nào. Cách thức theo dõi tín dụng của ta cũng chưa bài bản, chủ yếu dựa trên quan hệ, do đó mấy ông Tây không thoả mãn. Dẫn đến việc đấu thầu như đã nói ở trên. Chương trình dự kiến triển khai trong toàn quốc tại gần 200 chi nhánh ngân hàng.

Sau khi bất ngờ nhận được hồ sơ đấu thầu của Trung tâm Tính toán Ngân hàng Công thương HCM, văn phòng EC rất ngạc nhiên và tìm cách tiếp xúc. Để tiện giao dịch, anh Lộc lập ra hồ sơ một nhóm gọi là VinaSoft (một vài chi tiết về nhóm này các bạn có thể xem ở chương sau) trong đó kể ra tất cả những người nào mà chúng tôi biết về phần mềm ở Việt nam. EC rất khâm phục. Có thể đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến việc họ ký với ICB HCM một hợp đồng trị giá 23.000 USD (sau đó được mở rộng thành 28.000 USD) để mua một chương trình mà chúng đặt một cái tên rất hay là LAMIS. Sau này anh Lộc bắt chước cũng đặt tên các module của SIBA là SAMIS, TAMIS,... Tuy nhiên chúng (những cái tên) đều không sống được. Hợp đồng do anh Lộc ký, tôi đứng tên là Contact Person. Tất nhiên là chẳng cần dấu má gì. Luật Tây cũng vui. Mỗi khi đến hạn đòi tiền, tôi xông đến phòng tài vụ của chúng. Câu đầu tiên chúng hỏi sau khi xem hợp đồng là:

- Anh có phải là anh Lộc không?

Tôi trả lời:

- Không, tôi là Nam.

Chúng xem lại hợp đồng và gật gù:

- Đúng là Nam rồi.

Thế là đếm tiền cho tôi, chẳng cần chứng minh thư, phiếu thu,... lằng nhằng. Vậy mà vẫn suôn sẻ, chẳng ai lừa bịp ai cả.

Thực tế sau này cho thấy hợp đồng quản lý tín dụng EC là hợp đồng được tiến hành có bài bản nhất và được triển khai rộng rãi nhất ở Việt nam. Công lớn trong việc này là do nhóm triển khai hợp đồng của Nguyễn Khắc Thành với sự hỗ trợ đắc lực của Lê Thái Thường Quân (FiBI). Ngoài ra còn có Nguyễn Khắc Tâm (FPT), Mai Thanh Long (FiBI, nay là acb.longmt@fpt) hiện đều đang làm tại ACB. Thực ra ban đầu còn có nhóm Ngân hàng Nông nghiệp HCM gồm Thành và Thảo tham gia. Sau chừng một tháng, thấy phong cách làm việc có vẻ không hợp, mới quyết định Khắc Thành thay thế.

Bài học lớn nhất của anh em trong vụ này là tiếng Anh. Cả tôi, Thành, Quân trước đó đều chưa dùng tiếng Anh trong công việc hàng ngày bao giờ. Giai đoạn khảo sát và thiết kế chúng tôi phải làm việc với 2 ông Tây người Anh và một tay chỉ huy người Xcotlen. Tiếng Anh của lão Xcotlen có tên là Francis thật là khó mê. Của chúng tôi cũng vậy. Làm việc cứ như một buổi cãi lộn. Phải thừa nhận là các ông Tây đã thể hiện một tinh thần chịu đựng đáng nể. Trong quá trình làm việc họ tỏ ra rất ủng hộ chúng tôi và mọi việc có vẻ đều thuận buồm xuôi gió. Tôi còn nhớ ông già tên là Ross rất phúc hậu còn mời chúng tôi có dịp sang nghỉ tại trang trại của ông tại Anh.

Sau chừng 3 tháng chúng tôi đã nghiệm thu chương trình giai đoạn 1 và triển khai thí điểm tại 2 chi nhánh dưới Hải phòng. Sau đó 2 ông Tây nghiệm thu và cắp đít về nước. Anh em yên trí rút về Hà nội, bụng thầm nghĩ "Moi tiền Tây cũng dễ thật". Nào dè, bẵng đi một thời gian, tôi được văn phòng EC thông báo là sẽ có chuyên viên của hãng Earns & Young, một hãng kiểm toán hàng đầu thế giới đến kiểm tra chương trình. Không hiểu gì, tôi dò hỏi mới biết việc của bọn này là kiểm tra tính tương thích giữa quy trình và chương trình. Bọn chúng nhận mỗi ngày ít nhất 1000 USD. Tên tôi gặp là một tay trẻ măng. Bằng những võ in ấn học được trong vụ BNP, tôi in cho hắn mấy tập tài liệu. Hắn cười nhạt rồi phi ô-tô xuống Hải phòng. Hai hôm sau, cả văn phòng EC nhốn nháo vì tin tay Financial Controller, một tay cực kỳ quyền thế, bị bọn Việt nam sỉ nhục. Mấy hôm sau Khắc Thành về mới rõ sự tình. Số là, tay kiểm toán đại bợm nọ mò xuống, không chịu làm việc theo chỉ đạo của ta mà xông thẳng đến hỏi mấy cô kế toán. Gặp mấy cô thật thà khai hết, nào là cả tháng này chúng em bận quá chưa vào số liệu gì cả, nào là máy tính để trong lồng kính nhiều khi không có khoá không mở được, nào là các anh Thành, Quân gọi có lúc được lúc không,... Hắn cứ thế ghi lại và báo cho tay controller kia. Tay kia xông xuống chi nhánh gặp trần Thành, chửi bới lung tung. Không ngờ trần Thành quắc mắt mắng lại "You, you ... " tên kia cụp đuôi bỏ về, quát tháo quân sĩ loạn xạ, gây nên scandal như đã kể. Sau vụ đó, quân ta cũng khá vất vả. Nhưng lợi bất cập hại. Văn phòng EC trước đây chỉ loăng quăng không chú ý lắm, nay cũng phải dồn sức để cho việc triển khai chương trình được hiệu quả. Do nắm được cái chính là tiền, nên những yêu cầu, quyết định của EC cho các chi nhánh ngân hàng có khi còn được thực thi nhanh chóng hơn bản thân những quyết định của ngân hàng. Việc đó đã giúp đội triển khai khá nhiều.

Kết thúc giai đoạn 1, quân ta triển khai chương trình xong tại gần 40 chi nhánh của 3 tỉnh Hải phòng, Quảng ninh và Hồ Chí Minh. Thu được toàn bộ tiền, kết thúc một trong những hợp đồng hợp tác thành công nhất giữa FPT và FiBI. Sau đó văn phòng EC vì tiếc 56000 USD mà chúng tôi đòi để triển khai trong toàn quốc, đã chuyển sang phương án thuê người thực hiện, chúng tôi cũng không quan tâm nữa.

Đóng một vai trò đắc lực trong hợp đồng này là Lê Thái Thường Quân. Tốt nghiệp Đại học kinh tế HCM, anh lại rất có duyên và yêu Hà nội. Anh đại diện cho trường phái đào tạo của HCM làm việc rất bài bản, một tay viết tài liệu kiểu như Phan Văn Hưng bây giờ. Với Quân tôi có một số kỷ niệm vui vui. Khi đó trụ sở của đội lập trình ngân hàng nằm ở 25 Phan Đình Phùng. Một hôm cả bọn kéo nhau lên Phủ Tây Hồ ăn bún ốc. Lúc về tôi mới rủ Quân và Vũ (hiện là giám đốc kinh doanh của FiBI-HCM) đi bộ về. Bọn chúng nhất trí ngay. Chúng tôi đi vòng ra bờ đê, men theo các lò gạch của bãi sông. Nhìn dòng sông Hồng đỏ quạch phù sa, tôi thốt lên: "Giá mà được bơi qua sông nhỉ". Không ngờ hai tay nọ tụt quần áo lội ra bơi thật. Lúc đó là quãng đầu tháng 4, trời còn khá lạnh. Bơi một lúc, quay lại thấy tôi vẫn đứng trên bờ, bọn chúng mới quay lại.

Quân và Vũ cũng đã tham gia tích cực vào việc đặt nền móng cho phiên bản SIBA hiện nay ở FSS cùng với Thành, Huyền, Hồng Sơn, Đình Anh, Phương. Hồi đó, quãng tháng 8/1993, chẳng hiểu vì sao chúng tôi quyết định là phải thiết kế lại chương trình. Thế là cả bọn kéo nhau lên Tam đảo. Gồm có tôi, Khắc Thành, Lâm Phương, Quân, Vũ. Gần cuối tuần có Hồng Sơn phi xe máy lên tham gia. Chúng tôi phân nhau thiết kế và trình bày, có ghi âm lại hẳn hoi. Ăn uống có một chị rất xinh giúp, gọi là chị nhà. Suốt ngày, chúng tôi loay hoay trong sương mù Tam đảo và cãi nhau về các thuật toán cập nhật dữ liệu và xử lý giao diện. Ý tưởng ngông cuồng nhất là thiết kế một kiểu Client/Server trong một môi trường hoàn toàn monotask là DOS/Foxpro. Do toàn bộ hệ thống được thiết kế thành nhiều module độc lập, chúng tôi quy định việc cập nhật vào file dữ liệu thuộc module khác được thực hiện thông qua các hàm do module đó export ra. Phải nói đó là bước tiến bộ đáng kể trong việc abstraction data ra khỏi chương trình, nhất là trong môi trường một chương trình do nhiều người thực hiện. Tuy nhiên điều đó cũng gây giảm tốc độ đáng kể và tạo thêm một số khó khăn trong việc lưu giữ và phục hồi môi trường trước và sau khi gọi hàm. Lần đầu tiên Lâm Phương cũng đưa ra một thiết kế chi tiết cho module quản trị các tài nguyên của chương trình: các file dữ liệu và index, các chương trình ứng dụng, các báo cáo và màn hình, hệ thống menu và người sử dụng, data dictionary. Module này còn có khả năng kiểm tra tính toàn vẹn của dữ liệu, đặc biệt là các lỗi "Not a database file".

Ngoài giờ làm việc, mỗi đứa một ý thích. Riêng Vũ thì tha thẩn ngoài rừng để kiếm quà tặng chị Tú Huyền. Cuối cùng hắn cũng bắt được 1 con chuồn chuồn rất đẹp ướp trong chiếc hộp đĩa mềm bằng nhựa trong. Rất thẩm mỹ. Phải nói là Tú Huyền lúc đó là thần tượng của Hồng Sơn và Vũ. Có lẽ cũng hợp lý, mới chân ướt chân ráo vào FPT, chị đã bị giao cho toàn bộ đề án bảo hiểm Hà nội và đã thành công. Theo chỗ tôi được biết đến bây giờ chương trình vẫn đang hoạt động.

Làm việc căng thẳng, hôm nào chúng tôi cũng được chị nhà chiêu đãi thịt lợn, nai rừng với rau bí xào. Tuy tiêu chuẩn có 10.000đ/người, nhưng thức ăn khá tươm tất. Chúng tôi cứ cho rằng vì thịt rừng rẻ hơn thịt nhà. Mãi đến hôm chia tay, anh nhà mới gọi vào nói nhỏ: "Thịt lợn nhà đấy, móc đâu ra cho các chú thịt rừng với giá đấy" cả bọn mới ngã ngửa. Dù sao cũng rất ngon miệng.

Việc thiết kế bài bản đã mang lại những hiệu quả thiết thực. Ngày 12/9/1993, FPT ký một trong những hợp đồng phần mềm lớn nhất của mình với Ngân hàng Cathay Trust của Đài loan, thực chất là bán bản thiết kế Tam đảo của chúng tôi. Hôm đó đối với tôi là ngày thật hạnh phúc, lần đầu tiên trong một đề án, tỷ lệ phần mềm chiếm hơn 50%: 63000 USD cho phần mềm và hơn 50000 USD cho thiết bị. Đây cũng là lần đầu tiên FPT quyết định triển khai cáp UTP và mạng cấu trúc cho khách hàng. Trước đó chỉ dùng độc cáp đồng trục theo hình bus. Còn nhớ khi bảo vệ đề án mạng cho Bộ Thủy lợi, khi anh Khắc Sơn ở Trung tâm Thông tin, phản biện rằng ở các nước trong khu vực chẳng thấy ai dùng cable đồng trục cả, cả hội đã ồ lên phản đối. Bây giờ nghĩ lại thật xấu hổ, mong anh Sơn cũng bỏ quá cho.

Lại quay về với hợp đồng với Cathay Trust. Tôi và anh Ngọc trực tiếp đàm phán hợp đồng này. Việc đàm phán chia làm nhiều giai đoạn. Sau khi không thỏa thuận được với phái đoàn của Đài loan sang trong vòng 1, chúng tôi đã tưởng thất bại rồi. Tuy nhiên bọn Ngân hàng tại VN thì lại rất ủng hộ chúng tôi. Mr. Michael Hsieh, phụ trách đàm phán của chi nhánh Hà nội còn thì thầm: "Bọn nó (tức là bọn head quater) mà bê chương trình ở nước mẹ sang thì chúng tao chết". Chắc bên đó bọn máy tính vênh váo lắm nên không được cảm tình của dân nghiệp vụ. Khi được yêu cầu dẫn đi xem một địa điểm cài đặt, chúng tôi lại thấy hy vọng sống lại. Sau khi đã dặn dò chân gỗ MooSun ở ngân hàng VID-Public, tôi tống 4 tay Đài loan béo ú lên ghế sau của chiếc xe Service, niềm tự hào của ISC thửơ đó. Đến nơi, cả bọn mừng rú vì thoát được cảnh chen chúc vô cùng nóng nực trên xe nên chẳng đứa nào quan tâm đến việc hỏi cặn kẽ nữa ngoài việc chứng kiến có máy tính đang hoạt động. Lúc về, bọn chúng hội ý rồi xin phép được đi bộ. Chúng tôi đã ghi được 1 điểm quý giá. Đến bây giờ tôi vẫn ân hận một điều là đã không giảm giá một xu nào từ giá đầu tiên đưa ra. Michael có vẻ không hài lòng. Sau khi ký hợp đồng hắn nói với tôi: "Như thế là không lịch sự, đã có đàm phán thì phải có thỏa hiệp chứ". Bù lại, chúng tôi nhận tổ chức cho chúng một lễ khai trương thật công nghệ. Còn nhớ ngày khai trương là ngày 25/10/1993. Sẵn bộ Multimedia ở Lễ hội, chúng tôi mông má lại rồi bê ra. Cả bọn gồm có Hùng Xoăn, Cù Tuấn, Khắc Thành,... làm đến tận tối muộn đêm hôm trước. Hôm sau, băng khánh thành vừa cắt, cửa mở, tay giám đốc khoát tay một cái, tất cả các màn hình bật sáng, mặt trời đỏ nhô lên với dòng chữ Cathay Trust và nhạc hùng tráng. Cực kỳ ấn tượng. Michael chắc cũng thỏa mãn lòng tự ái của mình. Hơn nữa, sau này tôi còn phát hiện ra mình bị hớ trong hợp đồng khi đồng ý cho bọn chúng có toàn quyền cài đặt chương trình cho các chi nhánh trong Việt nam. Điều khoản này cũng đã gây ra một mối bất đồng nhất định trong quan hệ giữa hai bên khi chúng mở chi nhánh tại thành phố HCM.

Việc triển khai thành công hợp đồng này cũng nhờ công lớn của Khắc Thành và Hùng xoăn về mặt thiết bị. Vì thời gian rất gấp, từ ngày ký HĐ đến ngày cài đặt chương trình chỉ có 1 tháng. Chương trình lại chỉ mới tồn tại trên giấy, nên thời gian đầu tất cả đều bị phân vào việc. Ngay cả em Thủy (cùng năm với Hương còm), mới xin vào đang lớ ngớ, cũng bị bắt đi dạy. Đúng ngày khai trương, các module Demand Deposit, GL và System Management đã đi vào hoạt động. Tuy nhiên "đầu voi, đuôi chuột", sau đó việc phát triển tiếp chương trình bị phó mặc cho Khắc Thành. Bây giờ hắn vẫn tiếc là nếu hồi đó tập trung cả bọn làm tiếp với tinh thần Tam Đảo thì chắc đã bớt được bao nhiêu nỗi vất vả sau này. Nhắc đến em Thủy, lại nhớ đến một chuyện vui vui. Em Thủy trông cũng dễ thương, thực tập ở Viện Tin, bị chúng bạn lôi kéo sang FPT. Anh em toàn gán ghép cho Khắc Thành. Tuy nhiên em hơi bị quá rụt rè. Trong kỳ thi tuyển về chuyên môn (cùng một lần với Đình Anh như đã nhắc đến ở trên), em run bần bật không trả lời được câu hỏi nào. Anh Gia Bình lúc đó là thành viên của Hội đồng Giám khảo (nghiêm trọng chưa!), lấy làm lạ lắm bèn kéo tôi ra chỗ vắng hỏi: "Em này là thế nào, ở đâu ra?". Tôi trả lời: "Khắc Thành đang để ý đấy", Anh Bình gật đầu cười ra dáng hiểu. Nên trong cột điểm của Thủy mới có hiện tượng: 0,0,0,10,0. Về sau em đã thi lại đỗ, nhưng có lẽ do mặc cảm em đã xin đi chỗ khác, để lại nhiều niềm tiếc nuối.

Làm hợp đồng với Chinfon (tên sau này của Cathay Trust), cũng không thể không nhắc đến anh Hoàng Phương Đông, phụ trách máy tính của Ngân hàng. Anh vốn là bạn cùng lớp với Trung Hà và Phan Ngô Tống Hưng. Khi mới vào làm việc, được biết giá trị hợp đồng anh thì thào: "Sao chúng mày bóp bọn nó ác thế". Sau này, khi đã làm với nhau lâu, anh đúng là người "Tuy đi với địch nhưng làm cho ta". Anh thường xuyên giúp chúng tôi lấp liếm các lỗi và tìm cách áp đặt các điều kiện có lợi cho ta. Tháng 12 năm 1995, anh theo phu nhân sang NewYork làm việc, chúng tôi tiếc mãi.

Tuy thành công có vẻ bất ngờ nhưng hợp đồng Chinfon là kết quả tất yếu của việc đầu tư lâu dài của FPT trong lĩnh vực Ngân hàng. Bằng cách vừa làm vừa mày mò học, chúng ta đã có thể đạt được những hiểu biết khá sâu sắc trong lĩnh vực hệ thông tin ngân hàng trong một thời gian khá ngắn. Kinh nghiệm sau này khi làm việc với VietComBank đã minh chứng khá rõ ràng cho điều đó.

Về khía cạnh "bám thắt lưng Tây để học" mà nói, tiêu biểu nhất có lẽ là toàn bộ quá trình hợp tác của FPT với Ngân hàng VID-Public Bank.

VID-Public Bank (viết tắt là VPB) là ngân hàng liên doanh giữa Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam với Public Bank, Ngân hàng lớn thứ ba ở Malaysia. FPT đến với VPB khá bất ngờ. Tháng 8/1992, FPT đạt được những thành công vượt bậc trong việc tiêu thụ máy Olivetti tại thị trường Việt nam. Tổng giám đốc khu vực của Olivetti khi đó là Mr. Unduraga đã sang thăm và làm việc với FPT. Có lẽ đó là đoàn đại biểu cấp cao đầu tiên của các hãng có tên tuổi đến thăm FPT. Hồi đó Olivetti còn mang sang nhiều thiết bị và phần mềm về ngân hàng để demo. Kinh nghiệm quý nhất mà chúng tôi học được của bạn là nếu chương trình có lỗi thì cứ tắt béng máy đi rồi bật lại.

Trong các cuộc nói chuyện, tình cờ ông ta nhớ ra ông bạn là Chan Kok Choy, Tổng Giám đốc của VPB. Ông ta bèn dẫn anh Bình đến giới thiệu. VPB đồng ý mua luôn máy Olivetti, đồng thời cũng muốn ta đưa ra giải pháp phần mềm toàn diện thay cho hệ thống nửa thủ công lúc đó. Được trang bị bằng kiến thức của hai vụ MSB và BNP, tôi liền bắt tay ngay vào đàm phán hợp đồng. Nhờ đó, tôi gặp MooSun (tức moo@vpb.han), người đã góp phần không nhỏ vào thành công của nhóm Ngân hàng. Những hôm đầu tiên là những hôm cực kỳ khó khăn. MooSun có vẻ hoàn toàn không hiểu chương trình của chúng tôi làm được gì. Câu hỏi làm anh băn khoăn nhất là mở tài khoản như thế nào. Hồi đó chúng tôi cũng thấy bất lực lắm. Chương trình của ta cứ thấy tài khoản mới là mở cần gì phải module riêng. Một việc nhỏ như thế mà thằng này cũng không nhận thức được. Mãi sau này chúng tôi mới hiểu. MooSun vốn được đào tạo như một người Operation, nhìn nhận chương trình như một công cụ cung cấp việc tự động hóa các nghiệp vụ của Teller. Còn SIBA khi đó đơn giản chỉ là một chương trình Accounting thuần túy, back-end (tất tần tật làm vào cuối ngày). Tuy nhiên, chắc do tin lời giới thiệu của Olivetti, Mr. Chan cũng ký với chúng tôi một hợp đồng phần mềm trị giá 16.000 USD (theo chuẩn của BNP).

Đây là đề án có nhiều kỷ lục, kỷ lục thứ nhất là thời hạn. Đây có lẽ là đề án kéo dài nhất. Cho đến bây giờ vẫn chưa có bản nghiệm thu HĐ mặc dù tiền đã đòi hết từ lâu, thậm chí đã ký thêm và đòi tiền mấy hợp đồng nữa rồi. Sở dĩ có chuyện đó là vì MooSun là người không bao giờ thỏa mãn với cái hiện có mà luôn luôn tìm các ứng dụng mới. Do đó anh chấp nhận ký thêm hợp đồng mới mà chẳng cần nghiệm thu HĐ cũ. Chính anh đã mạnh dạn áp dụng Passbook Printer, một loại máy in có khả năng in trên các form in sẵn với độ chính xác tới 1/240 inch. Trong lời giới thiệu của TTVN cũng có lời cám ơn ông MooSun vì anh đã chấp nhận đưa chương trình vào cho hệ thống thông tin nội bộ Ngân hàng.

Một trong những hệ quả hiển nhiên của kỷ lục thứ nhất là biến đề án này thành đề án qua tay nhiều người nhất từ xa đến nay. Sau khi ký hợp đồng, do toàn bộ đội phần mềm của cả FPT và FiBI đều đang bận chinh chiến trong thị trường phía Nam là BNP và EximBank, tôi phải mượn Tấn Vinh (lúc đó đang làm cho khách sạn Thắng lợi) để thiết kế màn hình nhập giao dịch. Tuy trước đó anh chưa hề biết về ngân hàng, nhưng kỳ lạ thay giao diện đó vẫn còn giữ được cho đến nay. Sau đó anh Phạm Anh Tuấn bên Công thương tham gia viết các báo cáo kế toán, chị Quyên bên Hàng hải viết phần tổng hợp, Tú Huyền sau khi chạy khỏi Bảo Việt Hà nội viết phần tiền gửi và Tín dụng, Hồng Sơn và Vũ FiBI chịu trách nhiệm phần Remittance. Phạm Anh Đức tham gia một phần viết các chương trình in trên Passbook Printer. Module hệ thống do Đình Anh viết có cả chức năng cấp phép tức thời cho các giao dịch vừa là niềm tự hào vừa là nỗi lo âu khi tự nhiên các trạm làm việc không bắt được liên lạc. Đinh Quang Thái (tức thai@fpt) cũng góp một phần khi triển khai lại hệ thống Remittance. MooSun chịu trách nhiệm toàn bộ về phần tài liệu. Số là sau khi đọc các tài liệu mà chúng tôi cấp cho (vì không trốn tránh được), hắn chẳng hiểu gì cả nên đành phải bắt tay vào viết lấy. Phải nói tài liệu của MooSun đã cho chúng tôi hiểu được thực sự thế nào là User Manual. Trong đó miêu tả chi tiết cách một nhân viên phải làm thế nào để thực hiện được một giao dịch, kể cả việc bố trí máy, cắm điện, bật máy,... Tuy nhiên hiểu là một chuyện, còn làm được lại là chuyện hoàn toàn khác. Cho đến bây giờ các tài liệu sử dụng của FPT vẫn nổi tiếng là không giống với chương trình thật. Làm với MooSun còn có một thuận lợi lớn nữa, đó là anh luôn luôn viết rất chi tiết và có hệ thống những yêu cầu của mình. Những bản yêu cầu đó, thực chất đã góp phần đào tạo nghiệp vụ cho cả một lớp nhân viên FPT. MooSun gần như mê tín Tú Huyền, Hồng Sơn, Đình Anh và Xuân Chung (Bảo hành - chungnx@fpt). Đám cưới gây đầy thất vọng cho Khánh hói là của Tú Huyền cũng có vợ chồng anh tham dự. Có một chuyện nhỏ, như khi Ngân hàng mở chi nhánh ở Đà nẵng, anh cứ kỳ kèo anh Chung đi lắp mạng bằng được mặc dù biết rằng ở Đà nẵng có vô khối đội lắp được mạng. Vui nhất là khi anh Chung kể lại chuyện Hồng Sơn chiều chiều rủ anh ra bãi biển ngắm hoàng hôn, bỏ mặc các cô giao dịch viên ngân hàng xinh như mộng. Phải công nhận Sơn là người lãng mạn mà lại chung thủy - thế mới hay chứ. Là thần tượng của các em ngân hàng xinh đẹp, anh vẫn giữ được sự trong trắng. Nghe đồn là anh sắp lấy vợ.

Tháng 6/96, MooSun hết hạn về nước, FSS họp chia tay với anh tại quán ăn Huế Lý Thường Kiệt. Chúng tôi cùng hát với nhau. Anh cảm động nói: "Bây giờ tôi mới thấy thực sự buồn khi quyết định trở về". Hy vọng anh đang làm ăn thành đạt ở đâu đó trên đất nước Malaysia xa xôi và có nhiều duyên nợ với FPT. Những kỷ niệm về mối quan hệ với MooSun đã minh chứng rằng kiến thức và tình người không biết đến ranh giới địa lý và dân tộc cũng như ngôn ngữ.

Sở dĩ tôi nói là FPT có duyên nợ với Malaysia vì chính đề án VID-Public đã đưa SIBA ra ngoài biên giới Việt nam. Sau khi triển khai xong giai đoạn đầu, chúng tôi hân hạnh được đón ông Joseph Heathcote sang kiểm tra. Ông này là một chuyên gia hàng đầu về các hệ thống tin học ở Australia. Nghe đâu cả nước chỉ có dăm ba người. Ngân hàng mẹ của VID-Public là Public Bank thuê ông này trong 5 năm để chủ trì việc thay đổi toàn bộ hệ thống thông tin của mình. Public Bank là ngân hàng lớn thứ Ba tại Malaysia, và dự định sẽ down size và chuyển toàn bộ các chi nhánh của mình sang PC. Tổng dự án lên đến hàng trăm triệu đô la Mỹ. Nghe đâu đã ngã ngũ và người thắng cuộc hình như là HP Malaysia. Không hiểu sao ông Heathcote tình cờ lại quan tâm đến một hợp đồng bé tí có 16.000 USD ở Việt nam. Có lẽ vì liên quan đến giải pháp PC, nhưng nhiều phần chắc hơn là ông ta muốn thăm Việt nam. MooSun và Tổng Giám đốc Chan sợ lắm. Sau khi đã làm việc tại Ngân hàng, chúng mới dẫn ông ta đến trụ sở ISC tại Giảng Võ. Có lẽ đấy là bất ngờ lớn đối với ông ta vì thay vào những cơ sở lập trình sang trọng thì ông ta lại bắt gặp một sân trường đúng giờ ra chơi, ồn ào và hỗn loạn. Tôi có ngồi nói chuyện với ông ta chừng 1 tiếng đồng hồ về đủ thứ trên đời trong máy tính. Cũng tương đối thôi vì tiếng Anh giọng Úc của lão, tôi chỉ hiểu được chừng 30%. Không ngờ hôm sau lão mang đến một hợp đồng dày cộp đề nghị ký với FPT để mở rộng chương trình. Ngoài những điểm tôi và MooSun đã thỏa thuận trước, hợp đồng có chứa một điều khoản quan trọng cho phép Public Bank sử dụng SIBA trong các chi nhánh của mình tại nước ngoài. Quá bất ngờ và sung sướng vì chương trình của mình được tôn trọng thế, tôi đã đồng ý ngay với khoản phí bản quyền là 5000 USD/chi nhánh, bụng cũng không tin rằng có lúc nào đó điều này lại trở thành hiện thực. Sau này khi triển khai tại Lào và Campuchia, cố gắng bịa ra mọi thứ chúng tôi cũng chỉ nâng hợp đồng lên được tới 20000 USD (kể cả ăn ở). Thiệt hại sơ sơ cũng tới 50000 USD và còn có thể bị thiệt nữa. Tuy nhiên đổi lại ông Heathcote đã cho chúng tôi một cơ hội để khẳng định mình. Đối với cá nhân tôi điều đó là vô giá. Ông còn sang thăm Việt nam nhiều lần nữa. Lần nào tôi cũng dẫn ông và Chan đến ăn ở quán Huế, vừa rẻ và ngon. MooSun thì thầm với tôi: "Mr. Heathcote rất nể chúng mày, thỉnh thoảng ông lại bảo sang chơi để nói chuyện với Mr. Nam". Vì thế nên Tổng Giám đốc Chan luôn luôn coi chúng tôi là thần tượng. Hôm cuối năm vừa rồi, tôi nói Hồng Sơn muốn gặp Chan tại Emotion, cũng chỉ để gặp nhau cho vui, tôi quên mất rằng hôm đó là ngày bận rộn nhất của Ngân hàng. Thấy 2 cậu hớt hải phóng xe Mercedes đến tôi mới thấy hơi xấu hổ vì đã quá lạm dụng lòng tốt của bạn. Chính Chan đã mời tôi sang Malaysia chơi mấy ngày tháng 8/1994. Nhân dịp đó, Heathcote đã dẫn tôi đến thăm một chi nhánh được coi là tiên tiến nhất của Public Bank. Chương trình ở đó chạy trên Windows, tuy nhiên so về tính tích hợp giữa các modules thì coi bộ có vẻ kém của ta. Phần nào đó chuyến thăm này cũng liên quan đến TTVN sau này. Chẳng là hồi đó, ở VN đang rộ lên làm Internet. Cuộc đấu ác liệt giữa Viện Tin học, anh Trần Xuân Thuận, Trung tâm Thông tin Thương mại, Bưu điện. Ai cũng đưa ra dự án, nghe nói đến 500.000 USD. Anh Bình có nói tôi nên tham gia. Tuy nhiên lúc đó hoàn toàn mù tịt chẳng biết gì nên tôi làm ngơ. Nhân chuyến thăm Malaysia, được Peter Bate, một tay gián điệp của FPT nằm trong nội bộ Olivetti giúp đỡ, tôi gặp được 1 tay tự xưng là chuyên tư vấn về các giải pháp mạng. Sau này khi tôi mời chú tư vấn cho đề án Internet VN (vẫn võ cũ để khai thác thông tin), chú than rằng chẳng có tiền tôi mới ngã ngửa ra là các phần mềm và công cụ cho Internet lúc đó hầu hết là cho không. Cuộc cạnh tranh chủ yếu là tổ chức khai thác và nội dung, các vấn đề mà các nhà khoa học ở ta hoàn toàn không đề cập đến. Khi làm TTVN chúng tôi vẫn luôn luôn tuân theo các nguyên tắc đấy. Xin nói 1 chút đến Peter Bate. Anh làm ở Olivetti Malaysia và là người đấu tranh để Olivetti đầu tư chiều sâu vào Việt nam thông qua FPT. Những năm 91-92, Olivetti đang có khoảng 60% thị trường Ngân hàng ở Việt nam. Ru ngủ bởi những thắng lợi đó, những lời khuyên của Peter bị lãnh đạo hãng bỏ qua. Khi Olivetti bắt đầu nhận thức được điều đó, cam kết vào Việt nam thì có thể nói cơ hội tốt nhất đã bị qua. Từ vị trí dẫn đầu, Hãng lại phải bắt tay vào cuộc chiến mới để dành lại các thị trường đã mất. Một phần đó cũng là thất bại của FPT. Thiết nghĩ tất cả nhân viên FPT có thể rút ra những kinh nghiệm sâu sắc cho riêng mình. Peter sau đó chán lại bỏ về Australia. Xin mở ngoặc thêm là chính Peter đã giới thiệu SilverLake đến FPT từ đầu năm 1993.

Một đề án lý thú về mặt marketing mà tôi muốn nêu ra đây hợp đồng với chương trình cấp nước Phần lan gọi tắt là YME. Chính phủ Phần lan tài trợ cho Hà nội để cải tạo hệ thống cấp nứơc sạch của thành phố. Trong đó có việc xây dựng lại chương trình Quản lý thu tiền (gọi là Billing). Đột nhiên một ngày đẹp trời cuối năm 1992 chúng tôi nhận được đơn mời tham gia đấu thầu chương trình Quản lý Thu tiền. Đây là lần đầu tiên FPT tham gia vào một cuộc đấu thầu phần mềm. Chúng tôi rất lúng túng không biết xoay xở thế nào. Cùng tham gia có các công ty Gen Pacific và Viện Tin học. Trong đó đáng ngại nhất là Viện Tin học vì có các chuyên gia kinh nghiệm trong việc viết dự án. Tôi và anh Bảo được phân công chuẩn bị hồ sơ. Chúng tôi quyết định sẽ gồm 2 phần: Giải pháp kỹ thuật và Giới thiệu Công ty. Trong giải pháp kỹ thuật, phần phức tạp nhất là giải trình việc tại sao dùng Fox. Còn nội dung công việc, rất may là đội bạn đã chuẩn bị khá chi tiết. Lý thú nhất là phần giới thiệu Công ty. Anh Bảo nghĩ ra kế kể thật nhiều những người sẽ tham gia đề án. Và thế là danh sách những chuyên gia của FPT sẽ tham gia thực hiện đề án bao gồm cả các Tiến sĩ Thủy lực (chúng tôi cho rằng cũng gần với nước) như Trương Gia Bình, Lê Thế Hùng, Trần Văn Trản,... tổng cộng mấy trang. Quả nhiên hồ sơ chúng tôi gây ấn tượng. Sau mấy lần thất bại trong việc thuyết phục tôi giảm giá, anh chàng Seppo to béo và vui tính người Phần lan đồng ý ký với FPT hợp đồng trị giá 13000USD, cao hơn gấp rưỡi so với giá của Viện Tin là 7000 USD. Tôi còn nhớ ngày ký hợp đồng là ngày 2/1/1993. Tôi và anh Ngọc đèo nhau lên tận chỗ rẽ cầu Thăng long. Anh Ngọc thú nhận đây là hợp đồng dày nhất mà anh ký. Sau đó chúng tôi có ăn cắp lại mẫu này và áp dụng cho hầu hết các hợp đồng phần mềm khác. Về anh chàng Seppo này tôi nhớ nhất là chuyện khi tôi hỏi: "Are you married?", anh ta trả lời "Many times". Đề án này cũng góp phần làm cho anh ta thấy rõ tính mềm dẻo của người Việt nam. Do đã liệt kê danh sách những người tham gia quá nhiều, tôi với anh Bảo bàn nhau lúc đầu cũng phải đi họp cho đông thật. Thế là Nam, Bảo, Khánh, Phương, Thành, Huyền,.... được huy động hết. Đến lúc triển khai hợp đồng còn mỗi Phạm Anh Đức. Thế mà vẫn xong, Seppo lại còn rất kính trọng Đức và ký thêm mấy hợp đồng nữa.

Hợp đồng này tuy không lớn lắm về giá trị nhưng có ý nghĩa lớn vì lần đầu tiên chúng tôi chủ động tham gia đấu thầu với Tây và đã thắng. Tôi chắc rằng trong thành công ngày nay của anh Bảo cũng có ít nhiều kinh nghiệm từ vụ này.

Nhắc đến Marketing không thể không nhắc đến lần xuất ngoại đấu thầu đầu tiên của tôi và Khắc Thành. Đó là vụ MayBank. MayBank là Ngân hàng lớn nhất Malayxia, quyết định mở chi nhánh tại Việt nam vào giữa năm 1995. Nhờ môi giới, họ biết được FPT đã cung cấp giải pháp cho VID-Public và Chinfon Bank. Sau mấy lần gặp gỡ, Mr. Wan Kup, giám đốc chi nhánh Việt nam bảo tôi: chúng mày phải sang bên Trụ sở chính của Ngân hàng bọn tao để giới thiệu cho bọn máy tính ở đó. Thế là tôi và Thành khăn gói quả mướp sang đó. Đối thủ của chúng tôi là một công ty Malayxia tên là InfoPro. Bọn này tôi đã từng gặp khi sang Phnompenh. Chương trình của chúng cũng chạy trên Fox, tuy nhiên do có sự đầu tư và tham gia bài bản của Unisys, nên chương trình khá chuyên nghiệp. Mặc kệ chúng, bọn tôi miệt mài chuẩn bị slides và chương trình mẫu. Không ngờ, tay chịu trách nhiệm chính, Mr. Azip người Ấn độ lại ủng hộ chúng tôi nhiệt liệt. Sau khi liếc qua chút ít, anh trực tiếp đứng ra giới thiệu và bảo vệ SIBA trước đại diện của các phòng ban nghiệp vụ khác. Buồn cười nhất là trong khi Azip đang ca ngợi SIBA thì chúng tôi tìm cách ăn trộm bản InfoPro để về nghiên cứu. Một hôm tôi mượn cớ kéo mấy tay quân địch ra một góc để nói chuyện cho Khắc Thành "backup" dữ liệu. Tất nhiên là thay vì backup, anh đã nhanh tay copy tất cả những file đã được chúng tôi bí mật nén trước vào đĩa mềm (Có một điểm chúng tôi quên mất là không nhìn trộm mã khóa người dùng supervisor, may mắn làm sao khi về Triều cái lại mò ra được). Khó nhất là ăn cắp tài liệu. Quyển user manual to tướng là nỗi thèm muốn của chúng tôi. Cuối cùng tôi quyết định ngỏ lời với Azip hy vọng cậu ta giúp đỡ. Không ngờ hắn ta cười lên hô hố: "Chương trình này thối lắm, của chúng mày hay hơn nhiều lấy làm gì" thế là chúng tôi ngọng. Tuy nhiên sau này khi thực hiện hợp đồng, cuối cùng Tú Huyền cũng trộm được.

Chúng tôi để chương trình lại và ra về trong bụng cũng không hy vọng lắm. Không ngờ ít lâu sau tự nhiên thấy gọi đến để ký hợp đồng khẩn cấp cả phần cứng lẫn phần mềm. Để lấy tiền nhanh, Khánh hói đã ký đại mà chẳng cần đóng dấu gì. Có lẽ sự tự tin của chúng tôi đã thuyết phục được Azip và đến lượt mình sự tự tin của anh đã thuyết phục được các vị kiểm tra khó tính của một trong những ngân hàng lớn nhất khu vực này.

Biết chuyện chúng tôi sang tận nước bạn để bán hàng, bè bạn ở chỗ khác cũng có vẻ nể lắm.

Có lẽ điều đáng kể nhất mà tôi học được trong các cuộc hợp đồng với nước ngoài đó là sự tự tin. Nhờ may mắn tôi được gặp gỡ và làm việc với khá nhiều chuyên gia của các nước bạn. Từ Âu, Á, Mỹ, Úc đều có. Chân thật và thẳng thắn, chưa bao giờ chúng tôi làm cho bạn phải thất vọng. Cả chúng tôi và đối tác đều thừa biết là còn rất nhiều điều chúng tôi chưa làm được, thậm chí còn chưa biết tới. Nhưng khả năng học hỏi và áp dụng nhanh chóng của những lập trình viên Việt nam đã làm cho đội bạn phải tôn trọng. Tôi thật sự tin rằng nếu tất cả mọi người đều nhận thức được điều đó chúng ta sẽ có một cơ hội tốt để thực hiện bước nhảy vọt trong công nghệ thông tin. Tin học là một ngành đặc biệt, đến một ngày nếu chúng ta cho rằng mình đã quá giỏi và không cần lắng tai nghe, thì sản phẩm dù có tốt đến đâu cũng sẽ nổ tung không còn dấu vết như bong bóng xà phòng.

(còn nữa)


 
 

 
     
 
Văn hóa - Giáo dục khác:


Mềm mãi mà không cứng - Nguyễn Thành Nam (phần 3)Mềm mãi mà không cứng - Nguyễn Thành Nam (phần 2)
Mềm mãi mà không cứng - Nguyễn Thành Nam (phần 1)
  Xem tiếp    
 
Lịch khai giảng của hệ thống
 
Ngày
Giờ
T.Tâm
TP Hồ Chí Minh
Hà Nội
 
   
New ADSE - Nhấn vào để xem chi tiết
Mừng Sinh Nhật Lần Thứ 20 FPT-APTECH
Nhấn vào để xem chi tiết
Bảng Vàng Thành Tích Sinh Viên FPT APTECH - Nhấn vào để xem chi tiết
Cập nhật công nghệ miễn phí cho tất cả cựu sinh viên APTECH toàn quốc
Tiết Thực Vì Cộng Đồng
Hội Thảo CNTT
Những khoảnh khắc không phai của Thầy Trò FPT-APTECH Ngày 20-11