(Post 28/03/2007) LTS: Cách đây khoảng 30 năm,
Việt Nam đã từng thiết kế, chế tạo thành công máy vi tính với đầy đủ các
bộ phận riêng biệt và rồi đã từng đưa vào ứng dụng. Nghĩa là nó đã được
vận hành thực sự trong cuộc sống chứ không phải chỉ tồn tại ở phòng thí
nghiệm. Nơi đã làm nên kỳ tích này chính là Viện Khoa học Tính toán và
Điều khiển – nay là Viện Công nghệ Thông tin - vừa kỷ niệm 30 năm thành
lập (27/12/1976 – 27/12/2006). Nhân dịp Xuân Đinh Hợi 2007, Tạp chí Tin
học & Đời sống xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc Hồi ức về những
chiếc máy vi tính đầu tiên của Việt Nam qua bài viết của TS Nguyễn Chí
Công – một trong những tác giả của loạt máy này…
Chiếc máy
vi tính đầu tiên của Việt Nam (Photo: Nguyễn Chí Công, 1977) |
|
Kỳ I: VT80 - chiếc máy vi tính đầu tiên của Việt
Nam
Nhận được điện mời từ Ban Lãnh đạo Viện CNTT, ngày 27-12-2006,
tôi về Nghĩa Đô, Hà Nội, dự lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Viện và tham gia
một Hội nghị khoa học kéo dài sang tận hôm sau. Thật xúc động được trở
lại nơi gắn bó tuổi xanh của mình, gặp gỡ hàn huyên với bạn bè đồng nghiệp
khi tóc đã điểm sương! Tiếc rằng các anh chị Trần Thành Trai, Nguyễn Văn
Gấm, Ngô Thu Nguyệt... ở xa không về được, còn các anh Nguyễn Thúc Loan,
Trần Lợi Chung thì đã khuất bóng. Những người khác hầu như đều có mặt
đông đủ: từ lớp tiền bối như các anh Phan Đình Diệu, Nguyễn Ngọc Hoàng,
Trịnh Quang Khuynh, Nguyễn Lãm, Nguyễn Liệu, Lê Thiện Phố, Hồ Thuần...
đến các kỹ sư, kỹ thuật viên trung cấp, sơ cấp, phụ việc mà tôi vẫn nhớ
tên, rồi các thế hệ đến sau, tất cả đều tay bắt mặt mừng, từng nhóm chuyện
trò không muốn dứt. Trong không khí đầy ắp kỷ niệm, anh Trần Tất Hợp -
nay là nhà báo – có đề nghị tôi ghi lại một vài mẩu chuyện xưa. Từ chối
chẳng đừng khi hội ngộ, tôi đành nhận lời nhớ đâu kể đấy về “cái thủa
ban đầu lưu luyến ấy”, nếu lan man hoặc quên sót mong được bổ sung và
lượng thứ.
Câu chuyện tiếp theo khá ly kỳ, có cả một số nhân vật
lịch sử của dân tộc. Riêng Viện cũng ghi những trang sử của mình, gắn
cùng đất nước vừa thống nhất sau 30 năm đổ máu, rồi bị cấm vận và vướng
vào hai cuộc chiến mới. Ai đã từng sống trong giai đoạn bi tráng ấy thì
dễ hiểu vì sao chúng tôi vượt qua được những lúc tối, lúc sáng của số
phận…
Một phần
trụ sở dưới chân "Đồi Thông": 3 phòng bên phải của Phòng
Kỹ thuật tính toán (thuộc Viện Khoa học Tính toán và Điều khiển),
4 phòng kia của Viện Cơ học (Photo: Nguyễn Chí Công 1977) |
|
KHỞI THỦY
Cuối 1976, Viện Khoa học Tính toán và Điều khiển ra đời
như một thành viên của Viện KH Việt Nam (sau đổi tên là Viện KH và Công
nghệ VN). Lúc đó, anh chị em trong Viện đa số rất trẻ, chủ yếu lấy từ
Phòng Máy tính và Ban Điều khiển học, hai đơn vị thuộc Uỷ ban KH và Kỹ
thuật Nhà nước (tiền thân của Bộ KH và Công nghệ hiện nay); viện trưởng
là TSKH Phan Đình Diệu, 40 tuổi; phòng Kỹ thuật tính toán của chúng tôi
thì do TS Trần Văn Tiễu phụ trách.
Viện có trụ sở ban đầu chung với Viện Cơ học, toạ lạc
ở khu ao hồ Liễu Giai, Hà Nội. Nó gồm mấy dãy nhà cấp 4 lợp ngói, xếp
thành hình chữ E và một căn hầm chứa máy tính Odra 1304 nằm trong lòng
“Đồi Thông”, ngụy trang dưới bóng phi lao xanh tốt quanh năm. Xung quanh
Viện là các vườn quả và ruộng hoa tươi đẹp. Hướng Nam có khách sạn La
Thành ở phố Đội Cấn, hướng Bắc là rặng xà cừ trên đường Hoàng Hoa Thám.
Mỗi mùa mưa, cả hai ngõ thông ra những phố đó đều lầy lội, xe đạp rất
khó đi. Phía Tây có 4 ụ pháo phòng không, xa xa phía Đông là làng hoa
Ngọc Hà, nơi một máy bay ném bom B52 của Mỹ bị bắn rơi vào tháng 12-1972.
Cảnh thơ ấy nay đã phải nhường chỗ cho những ngôi nhà bê tông chen chúc,
lởm chởm.
Các anh Phan Đình Diệu và Alain Teissonnière (Photo:
Nguyễn Chí Công 1977) |
|
CƠ HỘI LỚN
Mới hoạt động, chúng tôi đã gặp may. Cuối 1977, anh Phan
Đình Diệu mời được Alain Teissonnière và Hoàng Thành Đào, hai chuyên gia
Pháp, sang làm việc. Anh Alain dành nhiều buổi sáng để thuyết trình về
Vi xử lý (Microprocessing), một khái niệm ngày ấy còn mới lạ đối với cả
thế giới, cho nên có tới 54 người từ 7 trường, viện khác nhau tham dự,
mặc dù hầu hết còn chưa tin điều Alain tiên đoán rằng các bộ vi xử lý
(Microprocessors) sẽ là những viên gạch thông minh có mặt khắp nơi, thay
cho những máy tính kềnh càng. Các buổi chiều, hơn 10 kỹ sư chúng tôi thực
hành với anh Alain, còn anh Đào, KS điều khiển học, thì đến với nhóm anh
Nguyễn Quang A ở Học viện Kỹ thuật Quân sự. Anh Đào còn gặp tôi nhiều
lần trong mấy năm sau, trước khi bị mất sớm vì bạo bệnh. Nhanh chóng thân
nhau, tôi học được ở anh tinh thần cần cù và yêu nước của một người con
dân tộc Thái. Mong anh dưới suối vàng vui lên vì nền tin học nước ta ngày
nay đã tiến xa, một phần cũng do được anh khai phá.
Là một chuyên gia kỹ thuật có tài sư phạm, anh Alain
đặc biệt thẳng thắn và cởi mở, đồng thời cũng rất khiêm tốn và giản dị.
Anh Diệu cho biết Alain mỗi tuần chỉ lao động 3 ngày cho mình và dành
tới 4 ngày cho Việt Nam. Alain đã cẩn thận chuẩn bị từ lâu chuyến đi tiên
phong này - mà để đến đích thì cần gấp ba thời gian bay Paris-Hà Nội bây
giờ vì bắt buộc phải vòng vèo qua Liên Xô cũ - rồi anh lại bỏ ra hơn hai
tháng làm việc không lương với Viện. Nhờ bài giảng dễ hiểu và sự hướng
dẫn tận tình của anh, chúng tôi đã nhanh chóng làm chủ công nghệ mới và
chế tạo thành công chiếc máy vi tính đầu tiên trên đất Việt, bằng những
vật tư và tài liệu do anh gom góp tiền túi để mua, phần lớn của Mỹ nên
ngày ấy vô cùng hiếm, đắt.
Thời bao cấp ở Hà Nội, nhân dân sống cực kỳ khó khăn,
ăn mặc giới hạn bởi tem phiếu, có xe đạp đã là khá giả...; may sao con
người nói chung rất tốt và đi đường khó bị tai nạn giao thông... Từ phương
Tây đến, Alain lại gặp những nỗi khổ khác. Chỉ nhìn ánh mắt anh đau xót
khi mở xem cặp lồng cơm lèo tèo rau, lạc của chúng tôi là đủ hiểu. Khi
rời Hà Nội, Alain đã sụt mất 4 cân vì thao thức. Đáng sợ hơn hàng rào
ngôn ngữ hoặc điều kiện vệ sinh, lại còn sự thật là rất ít ai dám tiếp
chuyện “Tây” ở ngoài cơ quan và khách sạn, như thế khác gì giam lỏng.
Thậm chí thấy Alain cư xử quá tốt, có kẻ còn nghi ngờ là CIA, làm chúng
tôi càng khốn khổ. Việc này còn tiếp tục một cách dở mếu dở cười như thế,
kể cả khi anh đã trở thành Tổng Thư ký UB vì sự hợp tác KH và Kỹ thuật
với Việt Nam (CCSTV – Comité pour la Coopération Scientifique et Technique
avec le Vietnam), một đối tác phương Tây quan trọng trong nhiều năm của
UB KH và KT Nhà nước. Sau hàng chục năm dài biểu tình chống Mỹ, Alain
đã cùng CCSTV đi tới cuộc gặp gỡ lịch sử vào đầu năm 1977 tại Paris với
cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Hành động thực tiễn đầu tiên của anh là gửi
thư đến UB KH và KT Nhà nước để tìm một cơ quan khoa học có khả năng tiếp
nhận chuyển giao công nghệ vi xử lý vào Việt Nam. Đáp lại lá thư này là
quyết định đồng ý hợp tác và lời mời Alain của anh Diệu, người đã trúng
cử vắng mặt vào Quốc hội CH XHCN VN trong khi sang Paris tiếp xúc giới
tin học Pháp ...
Đối thoại về hợp tác khoa học và kỹ thuật Pháp-Việt
tại Paris: cố Chủ tịch CCSTV Henri Van Regemorter ngồi bên phải cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng, nguyên Tổng Thư ký CCSTV Yvonne Capdeville phát biểu,
anh Alain đứng cạnh gương (Photo CCSTV 1977) |
|
KẾT QUẢ ĐẦU TIÊN
Chiếc máy vi tính này sử dụng bộ vi xử lý Intel 8080A,
vì vậy có tên là VT80. Nó được xây dựng theo thiết kế với kỹ thuật quấn
dây điện nối các chân cắm vi mạch điện tử (chip) do anh Alain mang sang,
vì chưa thể làm được mạch in ở Việt Nam lúc ấy và cũng không được phép
hàn trực tiếp vào các chip. VT80 bao gồm bìa xử lý trung ương (CPU card),
các bìa nhớ (RAM/ROM cards) và ghép nối vào/ra dữ liệu (I/O cards) cùng
các thứ lỉnh kỉnh khác, từ bảng hiển thị-điều khiển đến vỏ máy, nguồn
điện. Những người xây dựng là Nguyễn Gia Hiểu, Nguyễn Chí Công, Huỳnh
Thúc Cước, Nguyễn Trung Đồng, Đặng Văn Đức, Phí Mạnh Lợi, Nghiêm Mỹ, Phạm
Quang Oai, Nguyễn Văn Tam, Phan Minh Tân, Đỗ Đình Phú, Trần Bá Thái, Lê
Võ Bạch Thông, Nguyễn Chí Thức, Bùi Xuân Vinh. Giá như phòng không chật
chội thì một số anh em khác cũng muốn trực tiếp tham gia.
Thời gian nghiên cứu, lắp ráp, thử nghiệm, căn chỉnh
đều rất ngắn; điện thì không ổn định, có thể bị cắt bất kỳ lúc nào, chúng
tôi lại chưa từng được sờ đến những chip hiện đại như thế, chỉ sợ hỏng
do tĩnh điện hoặc sốc điện. Mặt khác, phải thực hiện mấy bìa nhớ mới được
vỏn vẹn vài chục kilobyte (vâng, tối đa 64 kB !!) vì ngày đó không có
chip nhớ động mà mỗi chip nhớ tĩnh chỉ chứa mấy trăm bit. Anh Alain chưa
đủ tiền mua bàn phím và màn hình, cho nên chúng tôi phải thực hiện việc
nhập vào từng bit thông tin bằng các công tắc và hiển thị chúng bằng các
diode phát quang. Hệ phát triển cũng chưa có, phải dịch thủ công chương
trình điều khiển rồi nạp trực tiếp thông tin trên mấy nghìn diode mắt
muỗi và điện trở. Lập trình và sửa lỗi còn tiêu mất nhiều thời gian nữa
vì phải dùng ngôn ngữ Asembly và mã máy, lại chẳng có máy in nào để giúp
cho mắt đọc, tay viết. Tuy nhiên tất cả vẫn thường xuyên tươi cười, quên
đi mọi nhọc nhằn...
Phần lớn các tác giả của VT80 (Photo: Nguyễn Chí
Công 1977) |
|
Thời gian vùn vụt trôi và cuối cùng thì mừng ơi là mừng,
máy ta chạy được thật. Nghe nói Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Phó Thủ tướng
phụ trách KHKT cũng quan tâm. Một kế hoạch hợp tác lâu dài lập tức được
thoả thuận giữa lãnh đạo Viện và CCSTV. Rồi chúng tôi bồi hồi lưu luyến
tiễn đưa những người thày đầu tiên về nước với lòng biết ơn vô hạn. Trong
hoàn cảnh khó khăn như thế, các anh đã thổi bùng ngọn lửa nhiệt tình và
lòng tự tin của tuổi trẻ chúng tôi, những con người dám vươn tới tương
lai. Các bạn trẻ đừng lạ khi VT80 chỉ chạy ở tần số... 2MHz (!). Một tháng
sau, tôi thi đỗ tiếng Pháp và được chọn đi thực tập, nhờ vậy mới biết
VT80 có tính năng không hề kém mà thậm chí kích thước còn nhỏ gọn hơn
chiếc máy vi tính Mỹ đầu tiên đã đi vào lịch sử thế giới năm 1975 (ALTAIR
8800). Nhưng nếu đem cả hai đi ứng dụng có lẽ chưa thích hợp bằng dùng
để nghiên cứu, và muốn ứng dụng thật sự thì còn phải mất nhiều công sức
nữa cùng các anh em Phòng Lập trình, như kỳ sau sẽ kể tiếp.
Nguyễn Chí Công
(theo Tạp chí Tin học & Đời sống) |