(Post 17/06/2010) Nhiều người nói với chúng
tôi rằng, Trương Gia Bình - Chủ tịch HĐQT tập đoàn FPT là một nhân vật
có nhiều ý tưởng. Chúng tôi chưa bao giờ có dịp gặp gỡ ông, một nhà khoa
học được đào tạo trong môi trường Xô Viết trở thành doanh nhân, để trao
đổi về điều đã làm cho ông trở nên khác biệt.
Ông Trương
Gia Bình - Chủ tịch HĐQT tập đoàn FPT là một nhân vật có nhiều
ý tưởng |
|
Hôm nay, Trương Gia Bình ngồi trước mặt chúng tôi đây.
Ông chuẩn bị cho một buổi nói chuyện về các bí quyết thành công vào ngày
hôm sau, mà nếu gạch đầu dòng ngắn gọn thì chúng bao gồm: khát vọng +
nhìn được các điểm nút chiến lược + tập hợp được những người có năng lực
để cùng vượt qua những khó khăn.
Cao 1m73, nặng 88kg, cuốn sách đang đọc dở dang là “Cuộc
đời tôi" (My Life) của Bill Clinton; ăn mặc theo lối càng ít thứ
đeo khoác trên người càng tốt và thoải mái, có thể nhận xét sơ bộ rằng,
ông Bình thuộc kiểu người cởi mở. Giọng nói của ông Bình khi phát âm chữ
“r”, lưỡi vẫn rung nhẹ. Đó là “di sản” của nhiều năm học tiếng Nga và
của quê hương miền Trung, cho dù ông ra Hà Nội sống từ năm 2 tuổi.
1. TS Bùi Quang
Ngọc - bạn học cùng từ năm lớp 2 (năm học 1964-1965) tại trường Phương
Đông – Hà Nội, người được coi là khá hiểu ông Bình. Theo ông Ngọc, ngày
ấy họ cùng ở phố Thợ Nhuộm. Nhà Quang Ngọc số 91, nhà Gia Bình ở số 86,
chính là trụ sở của Sở Y tế Hà Nội (bố ông Bình là Trương Gia Thọ - một
vị bác sỹ nổi tiếng thời bấy giờ). Trò chơi ấu thơ của họ thường cho cá
vào lọ để cùng ngắm chúng chọi nhau cho đến khi ngã ngũ.
Hai người học với nhau cả 3 năm cấp 3 ở Trường Chuyên
Toán Chu Văn An, cùng ngồi ở chiếc bàn cuối lớp. “Dân chuyên Toán
thường ít chú ý đến môn Văn cũng như các môn xã hội. Riêng Gia Bình học
toàn diện, lại ham mê môn Văn. Mỗi bài luận, Bình bỏ rất nhiều thời gian
nghiên cứu hàng đống sách chuyên đề rồi mới bắt tay vào viết. Tôi và nhiều
bạn thường sử dụng các tư liệu mà Bình đã mất công tìm kiếm, thậm chí
bắt chước cả cách phân tích, bình luận của Bình. Các bài Văn của Bình
thường được được tham khảo mẫu khi trả bài. Bình hay nói về Triết học,
trình bày các vấn đề dưới góc độ hoặc bằng ngôn ngữ Triết.
Hồi đấy tôi chỉ thấy hay hay vì nó khác với những
suy nghĩ tư duy thuần Toán, không biết đâu rằng đó chính là biểu hiện
của những phẩm chất lãnh đạo mà sau này Bình mới thể hiện rõ.
Năm 1974, khi sang Liên Xô, mỗi đứa một nơi, Gia
Bình học khoa Cơ học trường Tổng hợp Matxcơva, còn tôi học Toán ở Kisinhốp.
1979, Bình được chọn chuyển tiếp nghiên cứu sinh, còn tôi về dạy Toán
ở ĐHBK Hà Nội. Năm 1985, Bình về nước lập nhóm “Nhiệt và chất” ở Viện
Cơ, bắt đầu làm kinh tế.
Một tối đầu mùa hè năm 1988, Bình đến nhà tôi chơi.
Trên cái sân gác tầng 2 thoáng mát ở phố Khâm Thiên, Bình say sưa nói
về máy tính cá nhân và thuyết phục tôi tham gia nhóm của Bình để chuyển
máy tính sang Liên Xô. Ngoài sự thân quen rất nhiều năm, Bình nhìn nhận
tôi như một chuyên gia Tin học khi đó. Chính Bình đã biến tôi từ một giáo
viên, một nhà khoa học thành một nhà kinh doanh công nghệ và quản lý doanh
nghiệp như hôm nay” – TS Quang Ngọc nhớ lại. Khi ấy họ mới 32 tuổi.
Và sau đó mấy tháng, FPT chào đời.
2. Chúng tôi đặt
câu hỏi: Tại sao một nhóm các nhà khoa học lại rủ nhau bỏ đi làm kinh
tế? Ông Bình kể, thế hệ ông được hưởng thụ sự giáo dục về niềm tự hào
dân tộc, sinh ra là người Việt Nam đã là điều hạnh phúc. Chúng ta là lương
tâm của thời đại, và tin tưởng sâu sắc vào điều đó. Tuy nhiên khi đi ra
thế giới, gặp phải một sự thật phũ phàng mới thấm thía nghèo là hèn, hèn
là nhục. Điều ấy là một nỗi đau từ khi bước chân ra khỏi nước. Ông Bình
nhớ, những năm 1980, khi đang ở nước ngoài, hôm ra sân bay tiễn một bạn
về nước, một viên cảnh sát đã cầm giấy tờ của cô gái này vứt toẹt xuống
đất. Thứ nữa là khi về nước, một người bạn than thở: “Bình ơi đói
quá không nuôi nổi vợ con nữa, mình phải làm cái gì đi chứ?”
Vượt lên nghèo khó vốn là một suy nghĩ chất chứa trong
đầu từ lâu, và lần này thì nhóm những nhà khoa học này nhất quyết làm
kinh tế.
Nhân
dịp đại lễ 1.000 năm Thăng Long, FPT thực hiện chuỗi hoạt động
cộng đồng “FPT – Ngàn tấm lòng”, được phát động hồi tháng 3 vừa
qua. Chương trình đã được tổ chức tại TP.HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ
và Hà Nội với sự tham gia nhiệt thành của hàng ngàn thành viên
FPT cùng gia đình tham dự, nhằm thu hơn 1.000 đơn vị máu và 1.000
phần quà để ủng hộ cộng đồng và chào mừng đại lễ. FPT cũng tài
trợ và thực hiện hơn 100m2 tranh gốm thuộc Dự án “Con đường gốm
sứ ben sông Hồng – quà tặng Thăng Long – Hà Nội 1.000 năm”. |
3. Trương Gia
Bình cho rằng, câu chuyện lớn nhất của cuộc đời mình là FPT. Buổi ban
đầu cái tên FPT gắn với công nghệ thực phẩm. Việt Nam là một nước nông
nghiệp, ông Bình hy vọng vào các dự án viện trợ quốc tế trong lĩnh vực
này, nó cũng là điểm xuất phát làm các đồ sấy khô của nhóm “Nhiệt và chất”.
Nhưng doanh vụ lớn đầu tiên của FPT là đổi máy tính Olivetti
lấy các loại hàng của Liên Xô vốn quen thuộc với Việt Nam thời bao cấp.
Có thể nói giai đoạn 1988-1991 là giai đoạn đổi hàng Liên Xô. Giai đoạn
1991-1994 là giai đoạn tham gia thanh toán với Liên Xô (Nga) cho các công
trình thủy điện, đồng thời Tin học đã là một hướng kinh doanh độc lập.
Từ 1995, kinh doanh Tin học trở thành chủ đạo, các trung tâm định hướng
kinh doanh ra đời trong FPT. 1998, sau 10 năm thành lập, FPT khẳng định
vị trí số một trên thị trường Tin học của các ngành kinh doanh này và
cũng là nhà ISP đầu tiên của Việt Nam .
Trong quãng thời gian trên, ông Bình học hỏi rất nhiều
mô hình tổ chức và quản lý của các Cty công nghệ hàng đầu, áp dụng những
điểm phù hợp vào FPT. Lễ kỷ niệm 10 năm thành lập và đón nhận Huân chương
Lao động hạng hai của FPT là một sự kiện được dư luận chú ý. Thông thường
sau những thành công như thế thì người ta bắt đầu hưởng thụ. Nhưng Trương
Gia Bình chưa có ý định hưởng thụ và đã thuyết phục được hầu hết các cộng
sự của mình có chung ý chí đó. Năm 1999, FPT chuyển sang toàn cầu hóa
với việc tham gia xuất khẩu phần mềm. Đầu năm 2000, FPT là Cty Tin học
đầu tiên đạt chứng chỉ ISO-9001. Năm 2000, triển khai thành công hệ kế
toán Solomon theo chuẩn ERP quốc tế, hệ FIFA/MIS của FPT trở thành hệ
thông tin doanh nghiệp tốt nhất tại Việt Nam . Năm 2002 doanh số FPT vượt
100 triệu USD; năm 2003 vươn lên trở thành nhà cung cấp điện thoại di
động lớn nhất tại Việt Nam. Năm 2002, FPT trở thành Cty cổ phần, rồi tập
đoàn hóa. Hiện FPT có khoảng 10 ngàn nhân viên và doanh số đã vượt ngưỡng
1 tỷ USD.
Đầu những năm 2000, ông Bình tung ra lý thuyết Fractal
(tính bất biến của cấu trúc) và Leadership Building (kỹ năng lãnh đạo),
đồng thời phát động phong trào học tập các lý thuyết này trong FPT.
“Không nhiều cán bộ FPT hiểu được các lý thuyết
này, cũng như vận dụng chúng có kết quả. Là người lãnh đạo FPT trong những
năm qua, Gia Bình có niềm tin vững chắc vào những giá trị mà FPT đã tích
lũy được theo thời gian. Những giá trị đó rất nhiều cái xuất phát từ những
ý tưởng của Bình. Nếu không hiểu FPT, hiểu những chặng đường FPT đã trải
qua, thì cũng khó hiểu được những ý tưởng này. Bình là một nhà tư tưởng”
- TS Bùi Quang Ngọc nhận xét – “Bình nhìn nhận FPT phải có đối ngoại,
đối nội, có thông tin báo chí, có văn hóa, có kinh tế, có tinh thần, có
đoàn thanh niên, có phụ nữ, có thiếu niên nhi đồng (FPT Small). Bình học
ở quân đội ở cấu trúc Fractal, và thường xuyên tham khảo tư vấn các vị
tướng quân đội. Bình học hỏi cách dùng người của Bác Hồ. Những nguyên
lý của âm dương ngũ hành cũng được Bình áp dụng. Bên cạnh đó có nhiều
tư tưởng của Bình được minh chứng qua thực tế, ví dụ như bản đồ gene Cty.
Bình tự mình hì hụi phác thảo các chuỗi phân tử đầu tiên của bộ gene này”.
Là người
lãnh đạo FPT trong những năm qua, ông Gia Bình có niềm tin vững
chắc vào những giá trị mà FPT đã tích lũy được theo thời gian |
|
4. Để triển khai
kinh nghiệm sống còn “con người là cốt lõi của thành công”,
ông Bình đã từng phát động một chiến dịch cầu hiền tài. “Chiếu
cầu hiền tài” của ông đăng trên tạp chí nội san và được nhiều
báo khác đăng tải lại, đã gây xúc động mạnh trong giới trẻ. Hai câu lạc
bộ tài năng trẻ FPT ra đời, quy tụ hầu hết những học sinh - sinh viên
giỏi nhất nước, trong đó có nhiều em vừa đoạt các giải cao trong các kỳ
thi toán học, tin học quốc tế.
Một trong các nỗ lực cầu hiền tài đã đưa về FPT một ngôi
sao sáng trong làng phần mềm Việt Nam lúc đó là Henry Hùng. Tinh thần
“chiến tranh” được ông Bình phát động, để cho dễ nhớ, ông đã gói gọn mục
tiêu của Cty vào 3 chữ số: 528. Số 5 chỉ 5000 lập trình viên chuyên nghiệp
của FPT vào năm 2005, số 2 chỉ 200 triệu doanh số phần mềm xuất khẩu cũng
vào năm đó, số 8 chỉ giá trị của Cty tại thị trường chứng khoán Nasdaq
là 8 tỷ USD. Toàn thể nhân viên FPT hừng hực khí thế.
Trong quá trình “công nghiệp hoá, hiện đại hoá” đã xuất
hiện một tư duy mới: công nghiệp phần mềm là lối thoát duy nhất của Việt
Nam. Xuất khẩu phần mềm đóng vai trò quan trọng, vì nó không chỉ mang
về cho đất nước một ít ngoại tệ mà là mở ra cho đất nước một cơ hội phát
triển. Ngày 5/6/2000, Chính phủ đã ban hành nghị quyết về xây dựng và
phát triển công nghiệp phần mềm giai đoạn 2000-2005 với mục tiêu: 50 ngàn
lập trình viên, 500 triệu USD phần mềm xuất khẩu vào năm 2005.
Hàng loạt các chính sách ưu đãi đã được triển khai: miễn
thuế 4 năm cho các Cty phần mềm kể từ khi có thu nhập chịu thuế, không
áp dụng VAT với các sản phẩm phần mềm, thuế xuất nhập khẩu bằng 0... Đặc
biệt các lập trình viên Việt Nam được tôn vinh, khi mức lương bắt đầu
phải nộp thuế thu nhập nâng từ hai triệu lên tám triệu đồng. Các Cty phần
mềm được sử dụng internet với tất cả các cổng dịch vụ không bị kiểm soát
qua firewall, Nhà nước đầu tư vào các khu công viên phần mềm như Quang
Trung, Hoà Lạc...
"Những người làm phần mềm hân hoan thụ hưởng
các chính sách mới này, nhưng không phải tất cả trong số họ đều biết đến
công lao của ông Bình trong nỗ lực tác động hình thành chính sách"
- ông Hoàng Minh Châu nhận xét.
Khi cần
suy nghĩ, ông Bình cũng đốt thuốc, vẻ sôi nổi biến mất và thoáng
rơi vào trầm tư. |
|
5. Khi cần suy
nghĩ, ông Bình cũng đốt thuốc, vẻ sôi nổi biến mất và thoáng rơi vào trầm
tư. Ông Bình nhìn nhận, có ba ý tưởng quan trọng nhất trong cuộc đời mình.
- Ý tưởng thứ nhất: Đưa chiến tranh nhân dân
vào thương trường. Lịch sử Việt Nam là lịch sử chiến tranh vệ
quốc và chiến thắng mọi kẻ thù hùng mạnh. Ông để tâm học hỏi trực tiếp
từ những vị tướng quân đội và sau này tự tổng kết trong bài “chiến tranh
nhân dân ứng dụng vào quản trị kinh doanh”. Ông cho rằng sức mạnh đó là
riêng có của người Việt Nam, quốc gia khác, nền văn hóa khác khó lòng
học được.
- Ý tưởng thứ hai: Genetic. Khi nhìn
ra thế giới xem có doanh nghiệp nào tồn tại lâu dài, tìm hiểu bí quyết
tồn tại của nó, ông nhận thấy thương hiệu Sumitomo - Nhật Bản đã có 400
năm tuổi, nhưng lại có một Cty Thụy Điển đã tồn tại tới 7 thế kỷ. Ông
Bình phát hiện ra, bất cứ một cái gì trường tồn phải có một cấu trúc hết
sức đặc biệt và có thể đặt tên nó là genetic.
Để thiết kế được một hệ thống gen trong Cty, ông Bình
không biết phải bắt đầu như thế nào, cho dù hết sức ước mong. Lúc này
FPT xuất khẩu phần mềm sang Ấn Độ, ông Bình bắt đầu nghiên cứu các quan
điểm ISO và nhận thấy sự minh bạch của bộ lệnh này, đồng thời nó là quy
trình chung cho toàn bộ tập đoàn, như lá sẽ quang hợp, là hoa sẽ di truyền
vậy. Đồng thời tiêu chuẩn ISO có cả biến dị, bởi có cả giai đoạn check,
tức là sau một vòng tuần hoàn phải kiểm tra xem có cải tiến. Vừa đúng
dịp có cuộc xuất khẩu phần mềm, ông Bình đặt ra khẩu hiệu "Xuất khẩu
hay là chết", đồng thời cho vận hành genetic.
Ông Bình đánh giá, đến nay bộ lệnh của FPT vẫn là bộ
lệnh khác biệt so với các tập đoàn khác, bởi lẽ ông đã tìm mọi cách viết
một bộ lệnh đầy đủ để duy trì sự trường tồn của lệnh này, cũng như cây
cỏ trường tồn từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là tìm cách bắt chước
thiên nhiên. Ông Bình không biết FPT sẽ tồn tại được bao lâu, nhưng theo
đúng như thiết kế thì cần phải liên tục hoàn thiện, khi đạt đến đẳng cấp
thiên nhiên thì đương nhiên sự tồn tại sẽ được chấp nhận. Gen đòi hỏi
mỗi tế bào phải thuộc bài, phải có hệ thống đào tạo nội bộ. Tại FPT lãnh
đạo hành xử giống nhau, 10 người cũng như 10 nghìn người, phương thức
giống nhau dù quy mô khác nhau, đều theo quân sự lệnh.
Ý tưởng genetic có trong đầu ông Bình từ năm 1996, đến
lúc xuất hiện tại FPT đã là năm 2003. Một quá trình đeo đẳng.
- Ý tưởng thứ ba: Thác số. Ông Bình
dự báo rằng sớm muộn gì cũng có một cuộc thay đổi vị trí các quốc gia
trong tương lai. Ý tưởng này về sau người ta viết thành những cuốn sách
rất nổi tiếng như “Thế giới phẳng”, còn ông Bình gọi nó là thác số. Khi
chưa có internet thì công việc nước nào nước ấy làm, nhưng khi internet
ra đời sẽ có một dòng thông tin chảy từ chỗ có nhiều tin đến ít tin, từ
chỗ nhiều tri thức đến chỗ ít tri thức, đồng thời sẽ có dòng công việc
chảy theo dòng thông tin đó. Tương tự như việc phải chọn độ cao, ngăn
đập để làm thủy điện. Trong thác số, nước là kỹ năng, một số lượng các
kỹ năng, cụ thể trong công nghiệp phần mềm là tiếng Anh và lập trình.
Ông Bình đẩy tiếp một bước nữa là “tạo nước” bằng việc
mở trường Đại học, hiện nay FPT có khoảng 10 nghìn sinh viên, ngoài ra
cũng đào tạo cho khoảng 50 ngàn sinh viên trong các hệ thống khác. Khi
tích đủ lượng nước rồi thì ông Bình ngồi xem các tổ máy phát điện vận
hành. Các nước phát triển không ai đi viết lập trình cả, học thì khổ chết,
ra đời lương lại không cao, họ thường làm các việc khác. Vì thế ông Bình
cho rằng, trong tương lai các nước phát triển sẽ lười biếng, người ta
vẫn giàu có nhưng đến một ngưỡng nào đó sẽ phải chấp nhận bị thay thế.
Thác số chính là cơ hội của đất nước, trong cái nghèo lại ẩn chứa một
sức mạnh riêng.
6. Những năm 1980
khi đất nước đang rất khó khăn, ông Bình đã được mời sang Tây Đức làm
việc. Sự lựa cuộc sống ở nước ngoài tương đối dễ dàng, nhưng ông nghĩ
rằng không có nơi nào tốt hơn Việt Nam, mà ở Việt Nam thì phải ở Hà Nội,
nơi ông đã lớn lên, nơi văn hóa, trí tuệ tinh túy của đất nước tụ hội,
nơi ông cảm thấy "happy" hơn cả.
Ông Bình kể với chúng tôi rằng, ông đã quan sát kỹ mặt
trống đồng để cố gắng hiểu mật mã của quá khứ, và gọi nó là "một
bộ gen được ghi nhận đơn giản về văn hóa người Việt, về triết lí sống
người Việt. Ví dụ câu hỏi lớn nhất "hạnh phúc là gì?" Tôi thấy
trên trống đồng vẽ một nhà mái cong, một người đàn ông, một người đàn
bà, một đứa trẻ, một đấu gạo, trên nóc nhà có một con chim. Có thể thấy
người Việt cổ quan niệm rằng, chúng ta là người hạnh phúc khi có một nơi
để ở, có một gia để sống và có gạo để ăn. Kiểm nghiệm lại tôi thấy mình
vô cùng hạnh phúc, đời tôi đã có một nơi ở, một gia đình và có gạo. Bất
kể chuyện gì xảy ra đi chăng nữa, tôi thấy tự tin vô cùng để có thể mạo
hiểm. Làm kinh doanh phải chấp nhận mạo hiểm. Nhưng dù mạo hiểm đến đâu
đi chăng nữa tôi vẫn đã có một gia đình, có người yêu thương mình".
Thế Vinh - Mạnh Cường
(theo Thể Thao & Văn Hóa) |