(Post 07/07/2007) Những xu hướng trên thị
trường giáo dục đại học thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay đã mang lại dự báo
về sự hình thành của một thể chế mới: Siêu đại học - một tổ chức giáo
dục và nghiên cứu liên kết điện tử giữa tất cả các giảng viên tốt nhất
và hầu hết sinh viên có năng lực trong cộng đồng đại học toàn cầu...
Trường
đại học Princeton, một trong những đại học hàng đầu thế giới |
|
Cũng như nhiều lĩnh vực khác, thị trường giáo dục đại
học ngày càng mang tính toàn cầu với sự thống lĩnh của các học viện Mỹ.
Tuy nhiên, bất chấp những dự đoán cho rằng ảnh hưởng của các trường đại
học toàn cầu có trụ sở tại Mỹ sẽ tăng lên khi những rào cản địa lý và
kỷ luật giảm xuống, kỷ nguyên của “Siêu đại học” toàn cầu dường như vẫn
chưa thể trở thành sự thật.
Kỳ thi đầu vào
Tháng 6/2006, sinh viên trường Cao đẳng Thặng Đạt (Shengda)
ở Tân Trịnh (Xinzheng), Trung Quốc đã biểu tình khi họ nhận được bằng
tốt nghiệp có in tên của trường Shengda chứ không phải tên của đại học
Trịnh Châu (Zhengzhou) - trường đại học uy tín hơn – như họ đã được hứa
khi nhập trường. Sinh viên cảm thấy họ bị lừa gạt khi phải trả học phí
cao gấp 5 lần so với sinh viên của trường Trịnh Châu và lo rằng những
tấm bằng kém giá trị này sẽ đẩy họ ra khỏi cuộc “chiến” việc làm đầy khốc
liệt.
Sự kiện trên cho thấy vai trò của giáo dục đại học trên
thị trường toàn cầu. Nó cũng cho thấy tấm bằng đại học là “giấy thông
hành” không thể thiếu trong nền kinh tế tri thức toàn cầu hoá thế kỷ 21.
Giáo dục đại học hiện đang được hầu hết các nước coi là công cụ chiến
lược không thể thiếu để định hướng, hướng dẫn và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
Từ cuối thế chiến thứ 2, Mỹ đã được công nhận là đứng
đầu thế giới về giáo dục đại học. Không một nước nào có nhiều trường cao
đẳng, đại học, số sinh viên nhập học và tốt nghiệp như nước Mỹ. Và cũng
không một nước nào đầu tư nhiều tiền của vào giáo dục đại học và nghiên
cứu như nước Mỹ. Mỗi năm có đến nửa triệu người nước ngoài đến học tại
Mỹ. Trong bảng xếp hạng 100 trường đại học hàng đầu thế giới, hơn 1/2
trường nằm ở Mỹ, và đáng chú ý hơn là 17 trong số 20 trường đại học hàng
đầu đặt tại nước Mỹ.
Thị trường giáo dục toàn cầu ngày càng phát triển và
vai trò thống lĩnh của Mỹ cũng liên tục tăng cả ở Mỹ và các nước khác.
Làm cách nào các tổ chức giáo dục đại học của Mỹ, nhất là hệ thống trường
đại học tư và đại học nghiên cứu công nổi tiếng thế giới, có thể thích
nghi được với môi trường liên tục thay đổi? Liệu lĩnh vực này, tương tự
nhiều lĩnh vực khác trong quá khứ, có chứng kiến sự nổi lên của một số
“người chơi” toàn cầu – các cường quốc giáo dục – những người sẽ thống
lĩnh và xác lập đặc điểm cho nền giáo dục này? Liệu thế kỷ 21 có phải
là kỷ nguyên của “Đại học Toàn cầu” (Global U)?
Xe lửa, máy bay và đại học
Trước kia, việc đi lại của của phần lớn các học giả cũng
như hầu hết mọi người rất hạn chế, tốc độ phổ biến kiến thức rất chậm.
Kết quả là kiến thức và trình độ của học giả cũng như giảng viên chỉ được
đánh giá ở cấp độ vùng và khu vực.
Ngày nay, kiến thức được truyền đi chỉ sau vài giây và
thông tin không chính xác hay chưa đầy dủ sẽ nhanh chóng bị phát hiện.
Đây là kết quả của cái gọi là “hiện tượng IT-IT”: việc đi lại trên phạm
vi quốc tế ít tốn kém hơn kết hợp với công nghệ thông tin có mặt khắp
nơi đã đưa kiến thức và chuyên gia đi khắp nơi trên thế giới.
Các bài phát biểu, bài báo xuất hiện trên Internet ngay
khi chúng được công bố hoặc xuất bản. Các học thuyết được chứng minh hoặc
bác bỏ thông qua mang lưới học giả quốc tế - những người ngay lập tức
tiếp cận những phát hiện mới nhất. Bên cạnh đó, việc đi lại bằng máy bay
đỡ tốn kém hơn cũng giúp các chuyên gia - người đưa ra kiến thức – trở
nên “cơ động hơn”.
Kết quả của hiện tượng IT-IT là kiến thức/học giả/chuyên
gia được đánh giá trên phạm vị toàn cầu thay vì phạm vi khu vực như trước
đây.
Những chuyên gia và học giả toàn cầu luôn yêu cầu “giá
cao nhất”. Hiện tượng Michael Jordan là ví dụ điển hình. Khi chơi bóng
rổ cho đội Chicago Bull, Jordan có thể kiếm được 33 triệu USD/năm, trong
khi đồng đội của anh - một cầu thủ giỏi và tài năng không kém Jordan -
chỉ kiếm được vài trăm nghìn USD. Tại sao vậy?
Đơn giản vì Jordan thực sự là “cầu thủ toàn cầu” về bóng
rổ và có thể ảnh hưởng quyết định đối với khán giả trên toàn thế giới.
Trong khi đó, người đồng đội của Jordan chỉ có ảnh hưởng nhất định đối
với khán giá ở Chicago, nhưng không có sức lôi cuốn trên kênh thể thao
nổi tiếng toàn cầu ESPN.
Sự tập trung vào chuyên gia cấp độ toàn cầu gây ra cơn
sốt tìm kiếm, trên phạm vi quốc tế, những tài năng có khả năng giúp trường
đại học tiếp cận những nguồn lực lớn nhất. Cũng như các khía cạnh khác
trong cuộc sống, “người giàu” có xu hướng giàu hơn và “kẻ nghèo” sẽ càng
khó bắt kịp.
Tính đến 30/6/2005, giá trị tài sản của Harvard là trên
25 tỷ USD; Yale, Stanford, Princeton và đại học Texas là trên 10 tỷ USD
mỗi trường; 24 trường cao đẳng và đại học khác của Mỹ có tài sản trị giá
2 tỷ USD hoặc hơn; và gần 60 trường có tài sản trị giá ít nhất 1 tỷ USD.
Trong khi đó, cuộc khảo sát năm 2003 về giáo dục đại
học ở Anh cho thấy, chỉ 5 trường đại học của nước này có tài sản trị giá
ít nhất 200 triệu USD so với 207 trường của Mỹ. Chỉ có Oxford và Cambridge
- với tài sản trị giá trên 4 tỷ USD mỗi trường - nằm trong tốp 150 trường
đại học hàng đầu thế giới với vị trí số 15.
Ngoài Mỹ, chỉ có các nước với nền kinh tế tăng trưởng
nhanh như Trung Quốc và Singapore mới có khả năng đầu tư đáng kể để đưa
các trường đại học của họ lên tầm quốc tế. Còn các nước với tốc độ tăng
trưởng chậm hơn, các trường đại học ngày càng phụ thuộc nhiều hơn và nguồn
hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ.
Trong môi trường toàn cầu như vậy, những vị giáo sư giỏi
nhất cần tiếp cận những sinh viên tốt nhất và kết quả là cuộc tìm kiếm
tài năng được tiến hành ở cấp độ toàn cầu. Điều này giải thích tại sao
trong các trường đại học của Mỹ ngày nay, có đến 1/3 sinh viên tốt nghiệp
các ngành khoa học và xây dựng và hơn 1/2 sinh viên học tiến sĩ là người
nước ngoài.
Đại học Stanford, một trong những "thành đường" giáo dục đại học hàng đầu của thế giới tại Mỹ, với 17 giải Nobel trong bảng thành tích của trường |
|
Siêu đại học cho thế giới?
Tất cả những xu hướng trên thị trường giáo dục đại học
ngày nay đã dẫn đến sự hình thành của một thể chế hoàn toàn mới: Siêu
đại học - một tổ chức giáo dục và nghiên cứu liên kết điện tử giữa tất
cả các giảng viên tốt nhất và hầu hết sinh viên có năng lực trong cộng
đồng đại học toàn cầu. Liệu một nhóm trường giàu nhất và năng nổ nhất
sẽ đưa ra hình mẫu và xác định đặc điểm của trường đại học toàn cầu ?
Cuối thế kỷ 20, trên tạp chí Forbes, nhà kinh tế học
Peter Drucker đã nói rằng mô hình đại học truyền thống đã chết, và dự
đoán rằng những khu khuôn viên rộng lớn của các trường đại học lớn sẽ
trở thành “di tích” sau 30 năm nữa. Gần đây, giáo sư kinh tế học của trường
Princeton, Alan Blinder, cũng dự đoán rằng bất kỳ dịch vụ nào có khả năng
truyền qua Internet, nhất là giáo dục đại học, cuối cùng sẽ chuyển từ
khu vực chi phí cao sang khu vực chi phí thấp: khi tiền học phí đại học
ngày càng đắt hơn thì việc gửi thông điệp và kiến thức bằng phương tiện
điện tử xem ra hợp lý hơn.
Bất chấp những dự báo trên, kỷ nguyên của những siêu
đại học toàn cầu dường như vẫn chưa thể thành sự thật. Có 3 yếu tố cản
trở.
1. Là ảnh hưởng của truyền thống và
giá trị quan trọng nhưng khó xác định mà người trúng tuyển các trường
uy tín mang lại. Đi học cao đẳng hoặc đại học là một cách nâng cao trình
độ học vấn thông qua việc tiếp thu kiến thức. Về truyền thống, sinh viên
cao đẳng/đại học là những người đang có một thời giao thoa giữa tuổi thiếu
niên và tuổi trưởng thành. Họ dành thời gian này để khám phá, lựa chọn
và gặp gỡ đối tác tương lai và bạn đời ngay trong môi trường đại học.
2. Là vấn đề về biên giới quốc gia.
Các nhà kinh tế học nhận thấy rằng quyền lực của các nước đã giảm nhưng
vẫn chưa hoàn toàn biến mất. Các trường đại học và các nước tồn tại trong
hình thức cộng sinh chặt chẽ. Mỗi nước, theo cách này hoặc cách khác,
đầu tư rất nhiều tiền vào các trường đại học và đòi hỏi khả năng thu hồi
đáng kể - cả về số sinh viên tốt nghiệp đủ trình độ và lợi ích kinh tế.
3. Yếu tố thứ ba là sự có mặt của Đại
học Toàn cầu sẽ làm xuất hiện câu hỏi về tiền. Rất nhiều nhà sáng lập
trường đại học được những người giàu có hẫu thuẫn và tài trợ. Mô hình
đại học này vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Điều duy nhất có thể thay đổi
là địa vị và cấp bậc. Các trường đại học thời cổ và trung đại là sở thích
tốn kém của những người giàu và hoàng gia. Thực tế, các trường đại học
lớn ngày nay đều phụ thuộc vào nguồn tài chính của chính phủ, học phí
thu từ sinh viên (chỉ có thể đáp ứng phần nhỏ chi phí giáo dục), nguồn
hỗ trợ của những người hảo tâm để chi trả chi phí hoạt động. Thậm chí
như vậy, tài chính vẫn thực sự là vấn đề khó khăn. Để thành công và ổn
định hoạt động, trường đại học toàn cầu phải có nguồn hỗ trợ tài chính
đáng tin cậy từ nhiều nước cùng một lúc.
Mô hình khuôn viên đại học Trịnh Châu, một trong những
trường đại học có chất lượng được thừa nhận trên thế giới |
|
... trên phạm vi toàn cầu
Các trường đại học, giống như nhà thờ, đền chùa, chỉ
là một trong số ít các tổ chức tồn tại một cách cơ bản và không thay đổi
trong nhiều thế kỷ, bất chấp sự thịnh suy của các chế độ, sự biến đổi
của xã hội. Tuy nhiên, chính do cấu trúc đặc thù mà các trường đại học
rất chậm nếu không muốn nói là không thể thay đổi. Chính sự trì trệ này
lại là lợi thế nội tại của các trường đại học. Nhưng ngày nay các trường
đại học cũng đang vấp phải những thách thức do toàn cầu hoá mang lại.
Hơn nữa, đã có nhiều bất đồng xung quanh những vấn đề
như ai sẽ có quyền đối với sở hữu trí tuệ do tập thể giảng viên tạo ra,
tính lưu động ngày càng tăng của các giáo sư và nhà nghiên cứu, và trách
nhiệm của các trường đại học đối với đội ngũ giáo viên. Khả năng của các
trường đại học để tái định hình những nỗ lực nghiên cứu và giáo dục sẽ
phụ thuộc vào sự nhạy bén của đội ngũ giáo viên và sự mềm dẻo của các
ranh giới truyền thống.
Gần 1/4 thế kỷ, hoạt động nghiên cứu khoa học phần lớn
được tiến hành ở Mỹ và Châu Âu. Ngày nay, các quốc gia mới nổi - nhất
là ở Châu Á - có đóng góp ngày một nhiều hơn vào lĩnh vực khoa học và
công nghệ và xu hướng này sẽ tiếp tục trong thời gian tới.
Các trường đại học nghiên cứu đương thời có khả năng
mất vai trò dẫn đầu trừ khi có thể thành lập hoặc gia nhập mạng lưới toàn
cầu các nhà nghiên cứu đang làm việc trong lĩnh vực tri thức.
theo Nguyễn Anh
Nguồn: Dân Trí
|