(Post 22/12/2007) AQ (Adversity Quotient) là
chỉ số đo khả năng đối xử/quản lý nghịch cảnh, khó khăn, stress, gọi tắt
là chỉ số vượt khó. Bên cạnh những đại lượng quá quen thuộc như IQ (chỉ
số thông minh) hay EQ (chỉ số cảm xúc), AQ hiện được coi là một trong
những chỉ số định lượng các phẩm chất tạo nên thành công của con người.
Climber
thường không chấp nhận 1 tình thế sẵn có, và tìm cách xoay sở
để cải thiện nó tốt hơn |
|
IQ, EQ đã lỗi thời?
Bạn tự hào về chỉ số IQ (Intelligence Quotient - chỉ
số thông minh) của mình. Nó có thể thể hiện trí thông minh "thô"
của bạn, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng, nó chỉ là 1 yếu tố nhỏ tạo nên
thành công.
Manh nha hình thành từ năm 1912, khái niệm IQ đã "thống
trị" khá lâu trong quan niệm về thước đo phẩm chất dẫn đến thành
công của con người.
IQ, theo quan niệm phổ thông, thường được mặc định song
hành với khả năng tư duy. Tuy nhiên, sau này, nhà tâm lý học Howard Garner
đã mở rộng khái niệm IQ, khi chứng minh sự tồn tại của 8 dạng thức thông
minh khác nhau và các yếu tố này đều ảnh hưởng đến thành công của một
người.
Năm 1995, Daniel Goleman đã giới thiệu 1 khái niệm mới:
Năng lực xúc cảm (EQ - Emotional Intelligence) như một yếu tố cơ bản dẫn
đến thành công. Sự phát hiện này giải thích tại sao 1 số người không thông
minh lý tính (IQ) nhưng có sự nhạy cảm cao lại thành công hơn những người
có chỉ số IQ cao.
Năm 1997, nhà tâm lý học người Mỹ Paul Stoltz lần đầu
tiên đưa ra 1 khái niệm mới: AQ (Adversity Quotient) trong cuốn sách "Adversity
Quotient: Turning Obstacles into Opportunities" (AQ: Xoay chuyển
trở ngại thành cơ hội). Trong đó, ông định nghĩa, AQ là đại lượng đo khả
năng đối diện và xoay sở của một người trước các thay đổi, áp lực và các
tình huống khó khăn.
Ngoài IQ, EQ và AQ,
trong cuốn sách "Thế giới phẳng: Tóm lược lịch sử thế giới
thế kỷ 21" của nhà báo Thomas L. Friedman, xuất bản lần đầu
năm 2005, còn đề cập 2 khái niệm CQ (Curiosity Quotient - Chỉ
số tò mò) và PQ (Passion Quotient - Chỉ số đam mê) và coi tổng
hợp 2 chỉ số này có thể còn cần thiết hơn IQ (CQ + PQ > IQ) |
Trong cuốn sách xuất bản sau đó, Adversity Quotient @
Work, bàn kỹ hơn về vấn đề tương tự, ông giải thích cụ thể hơn cách thức
áp dụng khái niệm AQ, để có thể mang lại lợi ích.
Tác giả khẳng định, AQ giải thích tại sao một số người
không hẳn thông minh, hay được giáo dục tốt, đồng thời thiếu hiểu biết
xã hội, mà lại thành công trong khi nhiều người khác thất bại.
Được viết ra trên cơ sở tích luỹ kinh nghiệm thực tế
từ nhiều nghiên cứu với hàng ngàn giám đốc điều hành và nhân viên trong
hàng trăm lĩnh vực kinh doanh đa dạng, cuốn sách này đã nhanh chóng trở
thành handbook (sổ tay) bí quyết thành công ở nhiều tập đoàn, tổ chức.
Nó cũng được sử dụng trong những bài tập dành cho các
VĐV thể thao Olympics, những trường học, những tập đoàn, doanh nghiệp
dùng để đào tạo nhân viên.
AQ: Chỉ số vượt khó
Paul Sloltz đã phát triển khá nhiều ý tưởng của mình
từ những nhà tâm lý học đi trước, như Abraham Maslow, tác giả của tháp
Maslow nổi tiếng; từ Martin Seligman, tác giả của sách "Học lạc quan",
và Stephen R. Covey, tác giả của "7 thói quen của người thành đạt".
Nhiều nhà tâm lý đã ủng hộ rất nhiệt tình cho thuyết
AQ này. Điều này góp phần khẳng định, việc lượng hóa những phẩm chất tâm
lý bậc cao là một điều có thề làm được như đã từng làm với trí tuệ (IQ)
và cảm xúc (EQ).
Paul Sloltz cho rằng, những người có AQ thấp thường dễ
xúc động và dễ buông xuôi trước nhiều vấn đề trong cuộc sống. Trong khi,
những người có AQ cao sẽ ít khi đầu hàng và dễ dàng trở thành lãnh đạo
trong tương lai.
Ông phân định ra 3 dạng người dựa trên cách thức họ đối
diện với những khó khăn, thử thách trong cuộc đời. Đó là: Quitter, Camper
và Climber.
Theo 1 cuộc điều tra
xã hội học, với hơn 150.000 lãnh đạo doanh nghiệp trong hầu hết
các lĩnh vực trên thế giới, có nhiều người thuộc tuýp Quitter
(5 -20%), phần lớn thuộc dang Camper (65-90%), và chỉ có rất hiếm
người thuộc dạng Climber. |
1. Quitter: Là những người dễ buông
xuôi. Họ dễ dàng nản chí, dễ dàng từ bỏ việc theo đuổi 1 công việc, 1
dự định và cao hơn là 1 mục đích sống. Và, kết quả là thường giữa đường
đứt gánh, và nhận thất bại, hoặc kết quả không như ý.
2. Camper: Là những người chịu khó,
làm việc chăm chỉ, có ý thức phấn đấu rèn luyện bản thân, và sẽ làm nhiều
thứ để đạt tới 1 mức độ nhất định nào đó trong cuộc sống. Tuy nhiên, họ
dễ hài lòng và thoả hiệp với bản thân để thấy như vậy là đủ.
3. Climber: Là những người có sự kiên
định và hoài bão lớn. Họ luôn học hỏi, rèn luyện bản thân, nỗ lực cố gắng
để đạt tới những mức độ tốt nhất có thể trong khả năng. Họ cũng thường
là tuýp người không chấp nhận 1 tình thế sẵn có, và tìm cách xoay sở để
cải thiện nó tốt hơn.
Theo đó, ông coi chỉ số đo khả năng vượt qua những điều
kiện khó khăn là yếu tố lớn nhất trong những phẩm chất tạo nên sự thành
công cho con người.
Theo Paul Sloltz, chỉ số AQ có thể đo mức độ hoài bão,
nỗ lực, sự sáng tạo, năng lượng, sức khoẻ lý tính, xúc cảm và hạnh phúc
của một người. Nó cũng chính là một chỉ báo về 4 mức độ cao thấp của bản
lĩnh sống:
- Đối diện khó khăn
- Xoay chuyển cục diện
- Vượt lên nghịch cảnh
- Tìm được lối ra
Theo quan niệm của nhiều người, IQ và EQ là những khái
niệm "fix", có nghĩa là phần nhiều thuộc về "thiên phú",
khó có khả năng thay đổi. Trong khi đó, AQ là đại lượng có thể được rèn
luyện để "cải thiện, nâng cấp".
Còn bạn, đã bao giờ bạn tự định lượng chỉ số AQ của mình?
Hoàng Lê
(theo VietnamNet)
|