(Post 09/08/2007) Có GV lên lớp vẫn sử dụng
cuốn giáo trình tự soạn từ… 20 năm trước. Có GV tay không thao thao bất
tuyệt, rồi bảo SV tự nghiên cứu ở thư viện. Nhưng giáo trình ở thư viện
đa số vẫn là “30 năm vẫn… dạy tốt”, thậm chí 50 năm vẫn được dùng để giảng
dạy…
Sinh viên
tự nghiên cứu giáo trình tại Trung tâm Học liệu Đại học Huế, nhưng
không mấy trường ĐH ở ta có điều kiện như thế. |
|
Giáo trình “mọc râu” trong các thư viện
Ở bậc đại học, quá trình tự nghiên cứu, tìm tòi và cập
nhật kiến thức của sinh viên phụ thuộc rất nhiều vào sách tham khảo, giáo
trình tại các thư viện. Nhưng có một thực tế là lượng giáo trình đã quá
cũ nát ở các thư viện vẫn chiếm số lượng lớn, lại có quá ít đầu sách dành
cho sinh viên tham khảo. Như thư viện Đại học Bách khoa Hà Nội, giáo trình
xuất bản trước năm 1980 chiếm 30%, từ năm 1980 đến 1990 chiếm 20%, nghĩa
là có hơn phân nửa giáo trình ở thư viện của một trường công nghệ và kỹ
thuật hàng đầu đang ở tuổi “thượng thọ”.
Ngay như thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội - thư viện
được xem là cập nhật, mới hóa giáo trình khá tốt ở Việt Nam - cũng thừa
nhận đang phục vụ sinh viên rất nhiều giáo trình, đầu sách đã “lên lão”,
thậm chí nhiều cuốn xuất bản từ trước giải phóng như Giải tích hiện đại
của Hoàng Tuỵ tập 1 xuất bản năm 1967, tập 2 xuất bản năm 1970; Hướng
dẫn giải bài toán giải tích của Dương Thuỷ Vĩ xuất bản năm 1970; Cơ sở
phương pháp tính của Phan Văn Hạp tập 1 xuất bản năm 1969, tập 2 năm 1970;
Phương pháp luận sử học xuất bản năm 1967 dưới hình thức bản tin tipô...
Thạc sĩ Tạ Minh Hà, Phó giám đốc Thư viện Đại học Bách
Khoa cho biết: “Ở các nước cứ sau 5 năm, toàn bộ số giáo trình được
thay mới, số hoá và được thanh lý hết. Kiến thức mới được cập nhật đến
từng ngày. Trong khi ở ta, thư viện nào cũng có dăm bảy đầu sách giáo
trình xuất bản từ những năm 60, 70”. Chính vì thế mà thư viện của
Đại học Bách khoa hiện chỉ phục vụ được khoảng 30-40% nhu cầu của sinh
viên, nhiều sinh viên buộc phải dùng chung những giáo trình đã “nát bươm”
qua nhiều thế hệ.
Sinh viên của những ngành học khá mới của Việt Nam lại
càng rơi vào tình trạng thiếu giáo trình tham khảo. Các ngành như Luật,
Kinh tế, Công nghệ thông tin… luôn cần có những giáo trình được cập nhật
thường xuyên nhưng với sinh viên Việt Nam thì phải tự tham khảo bằng sách
nước ngoài.
Sinh viên Nguyễn Hồng Đức, Đại học Bách khoa Hà Nội nói:
“Nhiều giáo trình được in mới đây thực tế là “in mới hóa” những giáo
trình đã có từ thập kỷ 80, 90. Hầu hết sinh viên tụi mình đều phải tự
học, tự cập nhật kiến thức bằng những giáo trình nước ngoài nhưng số sinh
viên này không nhiều, họ lại không nắm bắt được đầy đủ kiến thức”.
PGS-TS Ngô Đắc Chứng, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học
Sư phạm Huế cho hay, một trong những tiêu chí kiểm định chất lượng giáo
dục đại học mà Bộ Giáo dục - Đào tạo đưa ra có liên quan đến giáo trình
và chất lượng giáo trình. Tuy nhiên, xem xét các tiêu chí này vẫn còn
nhiều bất cập, nhất là khi hệ thống giáo trình của Việt Nam chưa được
biên soạn một cách thống nhất, quy củ, chưa được chuẩn hóa bằng những
tiêu chí riêng.
Tiến sĩ Nguyễn Thanh Bình,
Giám đốc Trung tâm CNTT ĐH Huế cho rằng, một yêu cầu của
giáo viên ĐH bây giờ là có thể soạn giáo trình, bài giảng điện tử.
Đây cũng là cách để chống sự “lão hóa” của các giáo trình viết tay
ở các thư viện hiện nay vì giáo trình, bài giảng điện tử đòi hỏi
rất cao tính cập nhật. Nhưng hiện tại chưa đến 30% GV các trường
ĐH, thậm chí có trường chưa đến 10% GV tham gia soạn giáo trình,
bài giảng điện tử.
ĐH Huế có hơn 1.700 cán bộ
giảng dạy nhưng mới có 108 giáo trình và 128 bài giảng điện tử.
Ngay trên cổng thông tin giáo trình, bài giảng điện tử của Bộ GD-ĐT
thì cũng chỉ có khoảng 120 giáo trình điện tử của 10 trường ĐH trong
cả nước đóng góp. Đây cũng là khó khăn lớn đối với các trường đại
học trong quá trình nâng cao chất lượng giáo dục. |
Giáo trình đại học: Lưu hành nội bộ là chính
Khác với bậc phổ thông trung học, sách giáo khoa là do
Bộ Giáo dục - Đào tạo biên soạn và in ấn, giáo trình ở bậc đại học do
chính giảng viên đại học biên soạn và phát hành. Mỗi học phần được mỗi
giáo viên biên soạn để giảng dạy cho sinh viên, thế nên cũng là học phần
ấy nhưng có rất nhiều giáo trình khác nhau của nhiều giáo viên khác nhau
tại các trường đại học biên soạn.
Tiến sĩ Bùi Duy Cam, Hiệu trưởng Đại học Khoa học tự
nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết, rất nhiều giáo trình giảng dạy
do chính giảng viên của trường tự biên soạn lấy. Các giáo trình này do
những giáo viên có chuyên môn, nhiều năm kinh nghiệm công tác biên soạn
và được thông qua hội đồng kiểm định trước khi in thành sách. Tuy nhiên,
hầu hết các giáo trình cũng chỉ được cấp giấy “thông hành” theo dạng “lưu
hành nội bộ”.
“Lưu hành nội bộ vì đơn giản các giáo trình chỉ dành
cho sinh viên, giáo viên tham khảo thêm chứ không phải là giáo trình chuẩn
hóa toàn quốc để áp dụng giảng dạy cho tất cả các trường đại học”,
tiến sĩ Bùi Duy Cam khẳng định.
Tính chất lưu hành nội bộ cũng đồng nghĩa với tính cục
bộ của giáo trình đại học Việt Nam. Mỗi giáo viên dạy một cách, mỗi trường
mỗi kiểu không ai giống ai. Trao đổi về điều này, tiến sĩ Nguyễn Bách
Khoa, Hiệu trưởng Đại học Thương mại cho hay, thực tế việc tự biên soạn
giáo trình của giảng viên là điều cần được khuyến khích, tuy nhiên quan
trọng hơn là giáo trình đó phải được một hội đồng khoa học gồm những nhà
giáo, nhà khoa học có uy tín nghiệm thu.
Cũng đồng nhận xét như trên, PGS-TS Cao Ngọc Thành, quyền
Hiệu trưởng Đại học Y Dược Huế cho chúng tôi biết, đối với giáo trình
y khoa thì việc biên soạn của các nhà giáo phải rất cẩn thận, chi tiết.
“Khoa học thì không thể sai lầm, khoa học về con người lại càng không
thể sai lầm. Vì thế giáo trình y khoa của chúng tôi sau khi được biên
soạn được dịch sang tiếng Anh và gửi qua hội đồng khoa học uy tín ở trường
đại học của Mỹ nghiệm thu. Sau đó lại dịch trở lại tiếng Việt và gửi nghiệm
thu ở Bộ Giáo dục - Đào tạo rồi mới phát hành cho giáo viên, sinh viên
của trường”.
Thầy Cao Ngọc Thành cho biết thêm, những giáo trình trên
tuy thuộc dạng “lưu hành nội bộ”, song được hầu hết các trường đại học,
cao đẳng y dược trên toàn quốc sử dụng chung. Tuy nhiên, khảo sát thực
tế việc biên soạn giáo trình có quy trình nghiệm thu chặt chẽ như Đại
học Y Dược Huế, theo nhiều giáo viên vẫn chỉ có thể đếm trên đầu ngón
tay.
Mấy người viết được giáo trình, sách tham khảo?
Thực tế việc biên soạn giáo trình để “lưu hành nội bộ”
cũng có rất nhiều cấp: cấp khoa, cấp trường, cấp ngành và cao nhất là
lưu hành toàn quốc. Riêng chuyện giáo trình đại học Việt Nam có thể lưu
hành quốc tế vẫn được xem là chuyên “xưa nay hiếm”.
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Bả, giảng viên Đại học Nông lâm Huế
chuyên ngành Chăn nuôi -Thú y cho biết, để viết được giáo trình như là
một sách tham khảo chuyên sâu không dễ, có người phải mất 15 đến 20 năm
mới viết được một cuốn từ 200 - 300 trang. Tuy nhiên, như lời tiến sĩ
Nguyễn Xuân Bả, người tham gia viết sách giáo trình không nhiều cũng có
nhiều lý do riêng. “Có một nghịch lý là những giảng viên trẻ thì chưa
đủ kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn để viết sách, trong khi đó những
người có kinh nghiệm, có kiến thức thì lại không có nhiều… thời gian để
viết”, tiến sĩ Nguyễn Xuân Bả nói.
Một điều đáng quan tâm nữa là, rất nhiều giáo viên có
chuyên môn lại ngại tham gia viết giáo trình, sách tham khảo. “Giáo
trình, sách tham khảo sau khi xuất bản được trả giá quá rẻ, không xứng
với công sức mà mỗi nhà giáo - cũng là một nhà khoa học - bỏ ra. Đây cũng
là hạn chế không thu hút giáo viên tham gia viết giáo trình, sách tham
khảo”, giáo sư Vũ Duy Giảng, nguyên giảng viên Đại học Nông nghiệp
1 Hà Nội chia sẻ.
Sông Lam
(theo Dân Trí)
|