(Post 24/09/2008) Về tổng thể nó có ba bậc,
xây trên nền vững là cấp phổ thông cơ sở. Ba bậc đó là: Trung học phổ
cập, trung học mở rộng và trung học nâng cao.
Khái niệm trung học phổ thông (THPT) nay cần được hiểu
và thực hành chi tiết, rành rẽ hơn qua các nấc khác nhau. Bản chất cuả
mô hình này là: Tích hợp, phân loại, chọn lọc liên tục từ thấp đến cao.
Chúng ta hình dung ra một sơ đồ hình tháp. Về tổng thể nó có ba bậc, xây
trên nền vững là cấp phổ thông cơ sở. Ba bậc đó là: Trung học phổ cập,
trung học mở rộng và trung học nâng cao.
Ở cấp phổ thông cơ sở, từ lớp 1 đến lớp 4, các em được
giáo dục, đào tạo theo một hệ thống thống nhất, chương trình thống nhất.
Trên đỉnh tháp chỉ còn lại số học sinh có năng lực thục sư.
TS Nguyễn Văn
Tiến-Ích |
|
Khả năng, tố chất, năng khiếu bẩm sinh... từng học sinh
bộc lộ dần dần và rõ rệt ở cấp phổ thông cơ sở.
Bậc tiểu học chúng ta đã quen dùng một thời sẽ mang chức
năng của một cấp chọn lọc đầu tiên để ngay sau đó học sinh đã được tách
ra cho chuyển động theo ba dòng đã định sẵn, chiếu theo ba loại kết quả
học tập.
Ba dòng đó là: Trung học phổ cập, trung học mở rộng và
trung học nâng cao. Ví như học trò được phân luồng để leo ba ngọn núi
cao thấp khác nhau. Như vậy kết thúc lớp 4 là thời điểm học sinh và bậc
phụ huynh đứng trước một ngã ba đường rất quan trọng của cuộc đời (xem
lược đồ hình 1). Sau lớp 4 còn có thêm một vùng đệm đặc biệt, đó là cấp
định hướng, kéo dài từ lớp 5 đến lớp 6 nhằm sàng lọc tiếp tục đối với
những em đạt điểm tổng kết bậc tiểu học ở vùng mấp mé giữa khá và trung
bình. Qua quá trình học ở cấp đặc biệt này sẽ phân chia thành tích học
tập ra 3 loại A, B và C.
Sang lớp 7, các em vào 3 luồng đã chia trước, tương ứng
với kết quả phân loại. Thay vì học ở cấp định hướng, sau lớp 4 các em
đó cũng có thể thi để nếu đỗ với kết quả tốt, sẽ nhập học ngay lớp 5 cùng
các bạn đạt điểm khá, giỏi đã được phân luồng đợt 1.
Lược đồ
hệ thống 3 cột trụ |
|
5. 1. Trường trung học phổ thông phổ cập
(bậc trung học phổ cập)
Theo học hệ này, học sinh được trang bị kiến thức phổ
thông căn bản, được chuẩn bị cho chương trình đào tạo các nghề đơn giản
trong tương lai. Các em sẽ là một lực lượng lao động đông đảo có tay nghề
của xã hội. Thông qua sàng lọc ở cấp cơ sở hoặc cấp định hướng, các em
có thành tích thấp nhất sẽ theo học nốt các năm từ lớp 5 (hoặc lớp 7)
cho đến lớp 9. Kết thúc hình thức đào tạo này, học sinh nhận bằng tốt
nghiệp. Ta gọi đây là Bằng tú tài I.
Trong các năm ở bậc trung học phổ cập, học sinh vẫn có
đủ điều kiện tiếp tục phát huy năng lực của mình, nếu ở cấp cơ sở các
em chưa kịp bộc lộ. Đào thải là một quá trình diễn biến theo quy luật
tự nhiên và quy luật xã hội. Quá trình giáo dục, đào tạo, về bản chất,
chính là quá trình làm cho học sinh bộc lộ khả năng. Em nào giỏi sẽ được
chuyển sang leo ngọn núi cao thứ hai. Các em đã nhận Bằng tú tài I vẫn
còn cơ hội học tiếp lớp 10, một dạng lớp bổ túc riêng.
Nếu đạt kết quả tốt, số học sinh này sẽ nhận được Bằng
tú tài II hệ mở rộng. Với tấm bằng này, các em nộp đơn xin học các nghề
yêu cầu kỹ năng cao hơn hoặc trường trung cấp chuyên nghiệp. Cánh cưả
trường đại học cũng không khép lại vĩnh viễn với những ai đã qua cấp này
nhưng còn ý chí và khả năng.
5. 2. Trường trung học phổ thông mở rộng
(bậc trung học mở rộng)
Qua cấp cơ sở hoặc cấp định hướng, tức là sau lớp 4,
hoặc lớp 6, sẽ có một đội ngũ học sinh khá hơn để theo hệ trung học phổ
thông mở rộng, học từ lớp 5 (hoặc lớp 7) đến hết lớp 10. Bằng tốt nghiệp
THPT của thể loại trường này được gọi là Bằng tú tài II hệ mở rộng. Nó
chứng minh độ chín mức giữa về kiến thức, kỹ năng cuả học sinh. Với bằng
tú tài II hệ mở rộng, học sinh có điều kiện phấn đấu học tiếp để lấy Bằng
tú tài II hệ nâng cao của bậc trung học nâng cao (xem mục dưới).
Bằng tú tài II hệ mở rộng là một điều kiện cần để học
sinh làm đơn xin thi vào một trong các trường dạy nghề hoặc trường trung
cấp chuyên nghiệp. Xây dựng được một hệ thống trường dạy nghề (với khoảng
300 đến 400 nghề/trường nghề được phép cấp chứng chỉ) có chất lượng đích
thực cũng đang là một công trình mà Việt Nam cần phải làm gấp để nền kinh
tế hoạt động được đồng bộ. Hệ thống trường dạy nghề vừa mạnh vừa hiện
đại sẽ đủ sức tiếp nhận được đầu ra của ngành giáo dục - đào tạo cấp phổ
thông mới.
Hệ thống trường dạy nghề cung cấp cho xã hội, cho nền
kinh tế một lực lượng lao động cao cấp, có nghề. Họ là những thợ cả tương
lai. Chỉ những ai trong số họ đã tích luỹ kinh nghiệm nghề nghiệp trong
thực tế, đã thi lấy bằng thợ cả mới đủ điều kiện tối thiểu để được phép
đứng ra đăng ký hành nghề độc lập, mở một loại dịch vụ tương ứng. Thí
dụ muốn đứng ra làm chủ lò bánh mỳ và cửa hàng bánh mỳ, bắt buộc người
chủ phải có bằng thợ cả nghề làm bánh mỳ. Ở Đức, người hành nghề quét
vôi ve độc lập đã phải có bằng thợ cả vôi ve (phải chăng đây là bí quyết
về chất lượng cao của hàng hoá, dịch vụ made in Germany?).
Ngoài ra, sau nhiều năm công tác, làm việc, người ta
có cơ hội theo học tại các trường đại học.
Tại cấp phổ thông mở rộng, tức khi leo ngọn núi cao thứ
hai này, học sinh cũng có đủ cơ hội thể hiện tiếp tục khả năng của mình.
Em nào có năng lực thực sự, đạt kết quả học tập loại giỏi, sẽ được chuyển
sang, cho theo học tại Trường trung học phổ thông nâng cao. Vì trình độ
kiến thức của cùng một lớp ở ba hệ không đồng đều cho nên những học trò
được chuyển sang hệ cao hơn phải học lại lớp cuối tương đương mà họ đã
kết thúc ở hệ kia hoặc học tại một lớp quá độ ở hệ cao hơn để có thể bắt
nhịp, theo kịp được chương trình.
"Kỳ thi này
mang ý nghiã 2 trong 1 mà công luận Việt Nam đang rất quan tâm,
nhưng có chất lượng cao thực sự và đảm bảo công bằng vì đã qua sàng
lọc khắt khe từ cấp tiểu học đến tận lớp 12. Bằng cấp này mang ý
nghĩa về độ chín cho cấp đại học" |
5. 3. Trường trung học phổ thông nâng cao
(bậc trung học nâng cao)
Hệ này chuẩn bị cho học sinh con đường vào đại học. Bản
thân nó cũng lại được chia thành 2 bậc. Ở bậc 1 các em phải học hai môn
ngoại ngữ, sau khi kết thúc lớp 10, học sinh sẽ nhận Bằng tú tài II hệ
nâng cao và sẽ có cơ hội học nghề đòi hỏi kỹ năng rất cao, hoặc phấn đấu
để về lâu dài vẫn vào được đại học.
Những học sinh có khả năng nhất leo tiếp lên bậc 2, học
từ lớp 11 đến hết lớp 12. Bậc trung học nâng cao đã mang hình hài của
hệ đào tạo đại học. Cụ thể là: Nếu các em học sinh tự thấy mình rất giỏi
ở một môn thì theo học hệ trung học chuyên ngành nâng cao. Số học sinh
giỏi toàn diện hơn theo hệ tổng hợp nâng cao. Cuối cùng, kết thúc đoạn
đường trường, các em đi thi để lấy Bằng tú tài toàn phần.
Kỳ thi này mang ý nghiã 2 trong 1 mà công luận Việt Nam
đang rất quan tâm, nhưng có chất lượng cao thực sự và đảm bảo công bằng
vì đã qua sàng lọc khắt khe từ cấp tiểu học đến tận lớp 12. Bằng cấp này
mang ý nghĩa về độ chín cho cấp đại học. Nó chứng minh khả năng tiếp thu,
khả năng tự học, tự nhận ra thiên hướng của học sinh. Trong hai năm cuối
của trường này, tức lớp 11 và 12, các em đã phải rèn luyện kỹ năng lao
động khoa học độc lập, hình thành dần tác phong nghiên cứu của một sinh
viên đại học.
Có kiến thức cần ghi nhớ sẵn trong đầu, còn lại học sinh
phải nhận thức được rằng: Nếu biết cần tìm tài liệu, kiến thức nào, tìm
ở đâu, tìm bằng cách nào để giải quyết vấn đề gì thì người ta đã có 50%
phong cách của một chuyên gia (tránh được học vẹt). Trong số các môn của
chương trình chung, các em phải tự chọn ra các môn trọng điểm (những môn
khoẻ nhất của từng học sinh), tập hợp chúng (cùng với các môn kia) tạo
thành chương trình học cho cá nhân, rồi tự làm đồ án môn học ở cuối cấp.
Các môn tự chọn, phù hợp với học lực, năng khiếu thực
cuả từng học trò. Như vậy ở hai năm cuối sẽ hình thành nên các lớp khác
nhau. Những học sinh có cùng chí hướng, cùng giỏi một số môn sẽ ngồi chung
một lớp do các giáo viên giỏi kèm cặp. Các môn tự chọn đồng thời sẽ là
các môn thi lấy bằng tú tài toàn phần và chúng đã mặc nhiên định hướng
cho các em chọn trường đại học, ngành học mình ưa thích và có khả năng
nhất, phù hợp với nguyện vọng cá nhân (xem sơ đồ hình 2).
Sơ đồ đơn giản hoá hệ thống ba cột trụ và đầu ra của
ngành giáo dục, đào tạo cấp phổ thông |
|
Có bằng tú tài toàn phần trong tay là một điều kiện tiên
quyết, như một tấm thẻ vào cửa để các em đương nhiên được ghi danh vào
các trường đại học. Ai tốt nghiệp hạng ưu sau khi chọn học và thi những
môn khó, người ấy được theo học các ngành có chỉ tiêu chọn lọc ngặt nghèo
và rất hẹp (Numerus clausus). Còn lại các trường đại học khác, tuỳ theo
ngành, đẳng cấp, chất lượng đào tạo, sẽ nhận các em theo kết quả học tập
và điểm thi tốt nghiệp. Các trường đại học hoàn toàn có quyền độc lập
tự chủ, sẽ tuyển thẳng, hoặc sẽ tổ chức thi sát hạch thêm sau khi ứng
viên ghi danh.
Những ai đã leo hết một trong hai ngọn núi thấp hơn kể
trên (tốt nghiệp hệ THPT phổ cập hay THPT mở rộng), nay đang công tác
hoặc làm việc tại các cơ quan hay công ty, muốn theo chương trình đại
học, trước hết phải học thêm, dự thi lấy bằng tú tài toàn phần. Nếu không,
họ phải có thành tích công tác rất suất sắc và đã qua học bổ túc thêm.
Nhìn chung trong mô hình này, cơ hội luôn rộng mở cho tất cả mọi người
để phát huy khả năng cuả mình.
Có thể coi đây là một hệ thống đào tạo trung học phổ
thông rất mở và năng động, có lên có xuống, hoàn toàn không cứng nhắc,
khai thác được hết khả năng từng học trò. Học sinh nào gặp khó khăn về
nhận thức, ta thường gọi là học sinh thiểu năng trí tuệ, sẽ theo học tại
hệ thống trường khuyến khích. Học sinh đặc biệt suất sắc và có năng khiếu
vượt trội sẽ được đào tạo tại trường tinh hoa hoặc gửi ra nước ngoài để
các em thụ hưởng nền giáo dục - đào tạo ở những trường có uy tín cao trên
thế giới. Họ sẽ đứng trong hàng ngũ những chuyên gia, cán bộ tinh nhuệ
của đất nước trong tương lai.
TS Nguyễn Văn Tiến- Ích (Đức)
(theo VietNamNet) |