(Post 30/08/2008) Các cán bộ quản lý ngành
giáo dục Trung Quốc và các bậc phụ huynh thì lại đang đau đầu về vấn nạn
trong hoạt động tài chính tại các cơ sở giáo dục đào tạo của siêu quốc
gia này.
Sinh viên
Trung Quốc được hỗ trợ tài chính đảm bảo học tập. Ảnh minh họa |
|
HS Trung Hoa chăm học hơn HS Hoa Kỳ
Đường lối cải cách theo định hướng thị trường những năm
90 của thế kỷ trước đã đem lại những biến đổi căn bản trong hệ thống giáo
dục Trung Quốc. Cho dù đa số các nhà trường và học viện vẫn tiếp tục được
bao cấp từ ngân sách nhà nước, họ còn cần phải dựa trên các sáng kiến
thương mại riêng của mình để đảm bảo về tài chính cho hoạt động sư phạm.
Theo số liệu của Viện Khoa học giáo dục Trung Quốc, năm
1991, phần doanh thu nhờ thu tiền học chỉ đạt gần 4,5%, nhưng tới năm
2004, doanh số này đã chiếm tới 20% ngân sách của các nhà trường, học
viện.
Dễ thấy rằng, phương án hiệu quả nhất để ngành giáo dục
Trung Quốc làm ra tiền là mở các chi nhánh trên nền các nhà trường học
viện công lập, nhưng hoạt động theo nguyên tắc tự doanh. Những thử nghiệm
đầu tiên được áp dụng cho cấp tiểu học và trung học. Các thử nghiệm ban
đầu này thành công, theo một số chuyên gia, là nhờ vào việc chọn lựa và
đưa vào giảng dạy tạo các trường “công - tư hợp doanh” những cán bộ giảng
dạy giỏi nhất từ các trường do nhà nước Trung Quốc gây dựng đã nửa thế
kỷ qua. Đồng thời, quyết định của nhà nước, trong khuôn khổ chương trình
“khoa giáo hưng quốc”, từ tháng 6/2006, là giảng dạy miễn phí cho 9 lớp
đầu hệ giáo dục phổ thông, đã không làm cho đầu vào của các trường tiểu
học và trung học tư thục bị phương hại nhiều.
Vấn nạn tham nhũng và lo lót
Báo chí nước ngoài cũng cho hay nền giáo dục Trung Quốc
có các vấn nạn của mình. Đó là tệ tham nhũng và nạn lo lót để con mình
vào được những trường có giá hơn (trả thêm phí học trái tuyến qua “cò”).
Các lớp thường có 50–60 HS. Điều kiện trường sở so với các nước phát triển,
dĩ nhiên, còn nghèo nàn, học cụ xoàng xĩnh. Tuy thế, các khác biệt lại
chứa đựng cả những gì được xem là lợi thế của Trung Quốc.
Nếu đem so sánh, học sinh Trung Quốc được cho là hiếu
học, và học gạo hơn học sinh Mỹ. Ở Trung Quốc có quan niệm rằng những
người học vấn cao là những người học chăm; còn ở Mỹ, điều tra xã hội học
cho thấy người Mỹ nghĩ rằng các trò giỏi thường là những người thông minh
bẩm sinh. Trẻ em Mỹ thường được phép chơi nhiều hơn học, trung bình, các
em phải lên lớp 900 giờ một năm, trong khi được xem tivi tới 1.023 giờ/năm.
Trong khi đó, trẻ em nông thôn Trung Quốc thường có mặt ở lớp lúc 6h30
sáng và được dạy kèm cho tới 7h30, khi các tiết học chính khoá bắt đầu.
Các em về nhà ăn cơm lúc 11h20 để rồi quay lại trường
lúc 2h chiều, rồi học tới 5h. Tối nào các em cũng làm bài tập. Trong kỳ
nghỉ hè 8 tuần, các em sẽ dành một đôi tiếng hàng ngày để ôn tập. Theo
truyền thống Khổng giáo, người Trung Quốc thường “tôn sư trọng đạo” hơn
so với các quốc gia khác. Gia đình và quốc gia sẵn lòng dành những nguồn
tài lực lớn cho sự nghiệp giáo dục các công dân trẻ của Trung Quốc.
Tấm gương của việc cải cách giáo dục cấp cơ sở đã khích
lệ đến mức người ta đã quyết định nhân mô hình này ở bậc đại học. Các
trường đại học tư được mở dưới dạng chi nhánh của các các trường, viện
đại học, sử dụng đầu tư tư nhân (Việt Nam gọi là vốn tự có). Các chi nhánh
dạy thu tiền của các trường, viện đại học có tiếng ở Trung Quốc lộ diện
vào những năm 1993 - 1994. Cho tới năm 2003, ở Trung Quốc đã có tới 250
phân viện đại học, về thực chất là các trường đại học tư “đội mũ” các
trường đại học của nhà nước. Điều mà các sinh viên của các trường đại
học “con” (the daughter school) này muốn thấy khi cầm tấm bằng tốt nghiệp
của họ phải là tên của trường đại học “mẹ” (the mother school), chứ không
phải tên của phân viện đại học, về thực chất là tư thục, mà họ đã mất
tiền để tốt nghiệp.
Một ví dụ cụ thể
Nhưng không phải lúc nào sinh viên thuộc phân hiệu của
các trường nổi tiếng cũng được toại nguyện. Đầu hè năm 2006, sinh viên
Trường cao đẳng Shengda đã phản ứng quyết liệt với ban giám hiệu của trường
này, tới mức hình thành những cuộc biểu tình (Rioting in China Over
Label on College Diplomas, Joseph Kahn, The New York Times, June 22, 2006).
Số là, kể từ năm 1994, tại thành phố nhỏ Shengda đã xuất hiện phân hiệu
đại học trên, về thực chất là một trường cao đẳng “đội mũ” trường đại
học có tiếng tại thành phố Trịnh Châu, Hồ Nam.
Sinh viên trường cao đẳng Shengda đã phải trả học phí
cao gấp đôi so với các bạn học của mình ở trường ĐH Trịnh Châu để có được
một tấm bằng tốt nghiệp của trường đại học “mẹ” này. Tháng 4/2006, Ban
Giám hiệu Đại học Trịnh Châu đột nhiên cho rằng, ai học ở đâu thì nhận
bằng ở đó, một quyết định gây công phẫn cho các sinh viên cao đẳng Shengda.
Các sinh viên thuộc cao đẳng Shengda/phân hiệu ĐH Trịnh Châu hiểu rằng
từ “Shengda”, xuất hiện thay vì “Trịnh Châu” trên tấm bằng của họ sẽ phát
tín hiệu cho những nơi tuyển dụng lao động rằng, đây là những sinh viên
tốt nghiệp một trường không hề có tiếng tăm.
Vậy là, sự thay đổi của một từ trên tấm bằng có thể có
tác dụng đổi đời người sinh viên vừa tốt nghiệp. Trong điều kiện cạnh
tranh khốc liệt về công ăn việc làm, bất chấp những bứt phá mạnh mẽ về
kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp trong số những sinh viên vừa tốt nghiệp những
năm gần đây ở Trung Hoa vẫn tăng. Đồng thời, tính không minh bạch trong
quá trình tư nhân hoá đã cản trở cạnh tranh lành mạnh và công khai giữa
các cơ sở giáo dục đại học có thu học phí.
Từ năm 2004, nhà nước bắt đầu thu thuế các trường tư
thuộc cả hệ tiểu, trung học và cao đẳng theo biểu thuế đối với các doanh
nghiệp làm thương mại, dẫn đến một số trường thuộc thành phần kinh tế
này phải đóng cửa. Một số chuyên viên của cơ quan quản lý ngành giáo dục
còn chỉ ra một nguyên nhân nữa của hiện trạng kinh doanh giáo dục khó
có lãi, là các trường tư gặp khó khăn trong việc vay vốn từ hệ thống ngân
hàng, hiện vẫn nằm dưới sự kiểm soát cực kỳ chặt chẽ của nhà nước.
Phân tích
Để chứng minh rằng xu hướng thương mại hoá nền giáo dục
ở Trung Quốc chưa đưa lại những kết quả mong muốn, báo chí nước ngoài
đã dẫn các nguồn tin sở tại. GS Sun Guan Wen của ĐH Tổng hợp Sơn Đông
cho rằng học phí quá cao là một trong những trở ngại lớn của nền giáo
dục quốc dân nước này. Chẳng hạn, để có bằng tú tài (tốt nghiệp phổ thông)
học sinh phải trả 6.000 – 7.000 nhân dân tệ một năm, phụ thuộc vào chuyên
ngành, chưa kể chi phí ăn ở, sách giáo khoa, giấy mực. Nhà nước bao cấp
55% kinh phí hoạt động của hệ thống giáo dục đào tạo, 47% còn lại bù đắp
bởi thu học phí và nhờ vào các hoạt động tài trợ. Các chuyên gia kinh
tế cho rằng trách nhiệm bao cấp về giáo dục nói trên của nhà nước tương
đương với khoảng 4% thu nhập quốc dân của Trung Hoa. Hiện tại, do vẫn
thiếu kinh phí cho đào tạo, các nhà trường, học viện phải vay tín dụng
ngân hàng, dẫn tới học phí bị đẩy lên cao.
Vì thế, bảo đảm chi phí cho con em mình đi học là một
khó khăn lớn đối với các gia đình có thu nhập trung bình ở Trung Hoa.
Với các hộ ở vùng sâu, vùng xa, dĩ nhiên còn khó khăn hơn. Giáo sư Gun
cho rằng chi phí học tập cho một sinh viên đại học trong một năm bằng
thu nhập một vài năm của một gia đình nông dân. Theo nghiên cứu của Viện
Khoa học xã hội, chi phí học tập cho con cái một gia đình có thu nhập
trung bình và tạm đủ ăn của xã hội Trung Quốc hiện tại (chiếm khoảng 80%
tổng số gia đình của quốc gia này) giao động từ 1/3 tới 2/3 ngân sách
gia đình. Các chuyên viên còn cho rằng sinh viên ở Trung Quốc hiện phải
chi trả cho việc học hành nhiều gấp đôi so với sinh viên Nhật Bản.
Ông Ling Mu, từng là một trong những cán bộ quản lý giáo
dục cấp cao của Trung Quốc cho rằng “thương mại hoá giáo dục” là xu thế
không lành mạnh, đang đưa lại những hậu quả vô cùng tiêu cực” cho xã hội,
đào sâu thêm miệng hố ngăn cách giữa kẻ giàu người nghèo.
Duy trì xu thế này tất dẫn tới chỉ có con em thuộc giới
thượng lưu là được đào tạo có chất lượng, còn con em người nghèo sẽ chỉ
học hết cấp cơ sở là cùng. Theo cựu quan chức này, học vấn ở Trung Quốc
là con đường tất yếu dẫn tới thay đổi địa vị xã hội và thu nhập. Nhưng
điều tra xã hội trong tầng lớp có thu nhập thấp ở Trung Quốc cho thấy,
có tới 40% trong họ tin rằng không thể hội đủ tiềm năng để thay đổi địa
vị xã hội qua đường học vấn.
Lấy ví dụ, tại thành phố Trùng Khánh hiện có 1,4 triệu
nhân công có tay nghề thấp và gia đình họ. 95% con cái họ sẽ đi theo vết
chân của cha anh, tức là buôn bán vặt vãnh hay làm công nhật (cửu vạn)
trên vỉa hè, hoặc đánh giày, cắt tóc, sửa móng tay. Còn ở thành phố Thành
Đô, công nhân viên khu vực nhà nước chỉ có 2,8% là con em gia đình nghèo,
trong khi con em các gia đình thu nhập khá chiếm 26%.
Cán bộ Viện Khoa học xã hội Trung Quốc cho rằng thương
mại hoá giáo dục dẫn tới giảm sút uy tín của ngành này. Nhưng Bộ Giáo
dục Trung Quốc còn chưa cho hay về chiến lược phát triển toàn cục: các
học viện nhà trường thuộc khối quốc lập sẽ song hành ra sao với các chi
nhánh do tư nhân điều hành trong hệ thống giáo dục quốc gia nói chung.
Tuy vậy, một trong những phương hướng tiếp cận vấn đề này đã thể hiện
trong chỉnh sửa Luật Giáo dục – đào tạo, có hiệu lực từ cuối năm 2006.
Theo đó, chính quyền địa phương không được phép thay đổi “bản chất của
các nhà trường, học viện do nhà nước chu cấp kinh phí”. Điều này phải
được hiểu là không còn được phép mở các chi nhánh, về thực chất là tư
thục, dưới ô che của các trường công đang hoạt động phần lớn nhờ vào khoản
bao cấp của nhà nước.
Lê Đỗ Huy (tổng hợp theo báo chí nước ngoài)
(nguồn VietNamNet) |