(Post 29/11/2008) "Thời gian biểu hiện
thực hơn cho mục tiêu có trường ĐH top 200 của Việt Nam có lẽ sẽ là 2060
hoặc muộn hơn" - GS.TS Simon Marginson (Trung tâm Nghiên cứu Giáo
dục ĐH ĐH Melbourne, Australia) cho biết khi trao đổi với VietNamNet bên
lề hội thảo "Xếp hạng các trường ĐH: xu thế toàn cầu và các quan
điểm" tổ chức ngày 13/11.
GS Simon
Marginson |
|
Việt Nam đã đặt ra mục tiêu đến 2020 có 1 trường
ĐH lọt vào top 200 trường ĐH nổi tiếng thế giới. Ông nhìn nhận mục tiêu
này như thế nào?
- Tôi tôn trọng quyết định của chính phủ đặt ra tiêu
chuẩn thành tích cao hơn cho các trường ĐH nhưng tôi không rõ danh sách
xếp hạng 200 trường hàng đầu nào được nói ở đây?
Xếp hạng 500 trường ĐH hàng đầu thế giới năm 2007, hội
đồng đánh giá và kiểm định giáo dục đại học Đài Loan không xướng danh
trường đại học nào của Việt Nam. Bảng xếp hạng phổ biến khác của Tạp chí
Times Higher Education Supplement (THES) cũng chưa có tên của ĐH Việt
Nam. Nhưng một số trường ĐH VN cũng đã "góp mặt" trong bảng
xếp hạng Webometrics, dù khá khiêm tốn với vị trí của trường cao nhất
là 1920...Theo ông, VN nên lọt vào danh sách nào?
-Xếp hạng của Webometrics có lợi cho các trường ĐH
và quốc gia có hệ thống web mạnh.
Còn để được nằm trong top 200 theo bảng xếp hạng của
THES thì cần có bộ tiêu chí khác. Bảng xếp hạng này có phần thiên vị cho
các trường ĐH nghiên cứu lâu năm, đặc biệt là các trường tên tuổi quen
thuộc như Oxford và Harvard hoặc thiên vị các trường làm maketing mạnh.
Ít người nghĩ trường ĐH Chualalongkorn của Thái Lan thực sự nằm trong
bảng 200 này. Tôi ngờ rằng Thái Lan đạt được mức xếp hạng này vì nước
này được biết đến là 1 nước du lịch và BangKok là sân bay quan trọng và
đó là cái thúc đẩy nhân tố công nhận. Có lẽ, nếu thực thi một chương trình
du lịch học thuật, bao cấp cho các hiệu trường ĐH nước ngoài trong khách
sạn 5 sao thì VN cũng có ĐH lọt vào bảng xếp hạng.
Nếu xem mục tiêu " đến năm 2020 có 1 trường ĐH trong
top 200" hướng tới nhu cầu thực của quốc gia với năng lực toàn cầu
và phải có khả năng đạt được trong tương lai thì cần áp dụng bảng xếp
hạng của Trường ĐH Giao thông Thượng Hải. Hệ thống xếp hạng này danh tiếng
nhất vì các dữ liệu khách quan và sử dụng miễn phí. Các trường ĐH không
thể gây ảnh hưởng bằng cách tính dữ liệu của riêng mình.
Và khả năng đạt được mục tiêu top 200 của bảng xếp
hạng Giao thông ra sao?
GS.TS Simon Margion
tập trung nghiên cứu chính sách của chính phủ và nền kinh tế tri
thức, giáo dục ĐH và toàn cầu hóa. Luận án tiến sĩ "các thị
trường trong giáo dục ĐH" năm 1996 được ĐH Melbourne và Hiệp
hội Nghiên cứu giáo dục Australia đánh giá là luận án tiến sĩ
tốt nhất trong năm. Ông đã viết 6 cuốn sách về giáo dục, trong
đó cuốn "Doanh nghiệp ĐH" viết cùng Mark Considine giành
giải thưởng xuất bản của Hiệp hội nghiên cứu giáo dục Hoa Kỳ 2001.
|
- Để nổi bật trong bảng xếp hạng của trường ĐG Giao thông
(TQ), cần có giải Nobel. Đa số trường trong top 200 đều có ít nhất một
người đoạt giải Nobel. Các nước đang phát triển khó mà có những người
đạt giải thưởng về khoa học và kinh tế. Còn giải thưởng Nobel về văn học
và hoà bình thì không được tính.
Một tiêu chí khác của Giao thông là sự hiện diện của
các nhà nghiên cứu HiCi - tức là được trích dẫn nhiều. Các trường ĐH của
Mỹ có gần 4.000 nhà nghiên cứu HiCi. Ở châu Á thì Nhật Bản và Israel có
một số lượng lớn nhà nghiên cứu HiCi. Để thu hút và giữ được các nhà nghiên
cứu HiCi trong những năm sắp tới, VN có lẽ phải đưa ra mức lương gần với
mức lương thế giới, sự hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, cả về nhân sự và thiết
bị, cạnh tranh được trên phạm vi quốc tế.
Các tiêu chí khác liên quan tới công bố các bài báo khoa
học trong tạp chí hàng đầu là Nature và Science và toàn bộ thành tích
trong việc được trích dẫn. Chỉ với hơn 200 bài báo một năm, Việt Nam chưa
sẵn sàng cạnh tranh được một cách nghiêm túc trên cơ sở công bố công trình
và khối lượng được trích dẫn.
Từ năm 2000 - 2005, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển
ở Trung Quốc tăng 18,5% mỗi năm. Từ năm 1996 đến 2005, đầu tư cho lĩnh
vực này tăng từ 0,57% lên 1,35% trong tổng số GDP. Năm 2006, Trung Quốc
chi cho nghiên cứu và phát triển đứng thứ 2 thế giới. Trong 10 năm kể
từ 1995, số báo cáo khoa học thường niên của nước này tăng lên từ 9.061
tới 41.596. Nhưng hiện tại, Trung Quốc chưa có trường nào trong top 200
dù đã "góp"18 trường top 500 như Bắc Kinh, Thanh Hoa, Nam Kinh...
Nếu đầu tư như Trung Quốc, thì sẽ mất khoảng 5-10 năm
trước khi số công trình được công bố tăng mạnh và mất thêm một thập kỷ
nữa để cho mọi người biết được việc trích dẫn.
Vậy theo phán đoán của ông, bao giờ Việt Nam cái
đích "top 200" ?
- Theo tôi, có lẽ đến năm 2060 hoặc muộn hơn. Giả sử
thực hiện ngay lập tức theo mức đầu tư của Trung Quốc và Hàn Quốc thì
cũng không thể đạt kết quả xếp hạng trong top 200 của ĐH Giao thông vào
năm 2020. Một mục tiêu thiết thực hơn, tuy rằng khó, là lọt vào top 500
của ĐH Giao thông vào năm 2025 hoặc 2030. Trong bảng xếp hạng của ĐH Giao
thông hiện tại, có một số nước như Mexico, Brazil, Ấn Độ. Ấn Độ có GDP
tính theo đầu người ở mức của VN. Nước này đã tập trung nguồn lực cho
một số nhỏ các trường ĐH chất lượng cao.
Một cách cụ thể, những việc cần phải làm để đạt được
đích này?
- Xây dựng một trường ĐH nghiên cứu hoặc nhóm nhỏ trường
ĐH có lẽ là cái mà Việt Nam có thể làm để đảm bảo bước vào cuộc chơi kinh
tế tri thức sớm hơn. Cần có chính sách đưa những người học lấy bằng tiến
sĩ ở Mỹ và châu Âu về Việt Nam. Trả lương cho những giảng viên ưu tú với
mức lương gần như của Mỹ để giữ chân họ và đối xử với giảng viên nước
ngoài theo cái cách của ĐH quốc gia Singapore. Tuy nhiên, ngay cả Singapore
cũng gặp khó khăn khi giữ người nước ngoài đủ lâu để có một tác động lâu
dài đến năng lực nghiên cứu. Thứ hai, đổi mới từ gốc đến ngọn văn hoá
quản lý chất lượng, đặc biệt là sự tự do học thuật. Người ta sẽ không
thể sáng tạo được nếu chính sách rập khuôn.
- Cảm ơn ông!
Hạ Anh (thực hiện)
(theo VietNamNet) |