(Post 04/11/2009) Trong hàng thập kỷ nay, Mỹ
luôn giữ vị trí quán quân với những cái tên đứng đầu bảng trong các thước
đo về giáo dục. Nhưng trái với sự ngưỡng mộ của các nước dành cho mô hình
giáo dục của nước này, nhiều người Mỹ đang lo sợ nếu không thay đổi, giáo
dục Mỹ sẽ trở thành tụt hậu.
Khuôn viên
ĐH St. John’s |
|
Henry T. Yang là một trong số ít học giả người Mỹ được
Chính phủ Singapore mời làm cố vấn cho chương trình cải cách giáo dục
đại học của nước này. Trong cuộc họp gần đây nhất, ông cùng các thành
viên trong ban cố vấn đã duyệt lại kế hoạch xây dựng thêm một trường đại
học công lập - trường đại học công lập thứ tư của Singapore.
Chuyện chẳng có gì đáng nói nếu ở Mỹ - thiên đường mơ
ước của nhiều sinh viên quốc tế, nơi Yang đang là Hiệu trưởng danh dự
của trường Đại học California, tình hình lại ngược lại. Hệ thống trường
đại học công lập ở đây không những không được mở rộng, mà còn phải thu
hẹp quy mô hết mức có thể.
GD ĐH chỉ là quan tâm thứ yếu
Trước những đợt cắt giảm ngân sách sâu chưa từng có,
lãnh đạo các trường đại học công lập buộc phải thắt chặt chi tiêu, cắt
giảm lương, nhân lực và thậm chí cả số sinh viên đầu vào. Nhiều giảng
viên và sinh viên bắt đầu lo sợ cho sự sống còn của ngôi trường mà mình
đã và đang gắn bó.
Mọi chuyện càng thêm rối bời khi nhiều chuyên gia giáo
dục đại học nản lòng cho rằng rất có thể Mỹ sẽ tụt lại phía sau Singapore
và nhiều nước châu Á. Bởi nước này không thể mạnh tay chi cho hoạt động
nghiên cứu và giáo dục đại học như trước. Không ai dám chắc Mỹ có thể
bảo toàn vị trí quán quân trong các thước đo giáo dục trong bao lâu.
Chỉ trong 5 năm, từ năm 1998 đến năm 2003, số bài viết,
công trình nghiên cứu được đăng trên các tạp chí nổi tiếng của các nhà
khoa học Mỹ đã giảm từ 63% xuống còn 58%. Hiện nay, số sinh viên theo
học chuyên ngành kỹ thuật của Mỹ chỉ ở mức 4%. Trong khi đó, tỉ lệ này
ở châu Âu là 13% và châu Á là 20%.
Mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức, nhưng dường
như Chính phủ Mỹ khá thờ ơ khi giải quyết vấn đề. Thậm chí từ rất lâu
trước khi cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay diễn ra, hệ thống giáo dục
đại học công lập ở nước này đã là mối quan tâm thứ yếu của chính phủ.
Được xếp sau cùng trong danh sách nhận ngân sách, nhưng giáo dục đại học
công lại luôn là cái tên đầu tiên được xướng lên mỗi khi chính phủ cần
thắt chặt chi tiêu.
Khó khăn càng nhân lên khi trách nhiệm giải quyết các
vấn đề liên quan được đẩy về các bang. Rõ ràng, với một hệ thống 4.400
cơ sở đào tạo đại học cả công lẫn tư rải khắp 50 bang, việc tìm ra một
giải pháp toàn diện sẽ không đơn giản, nếu không muốn nói là không thể.
Trong bản báo cáo Rising above the gathering storm (Nổi
lên trên bão tụ), ông Charles Vest, cựu Chủ tịch Học viện Massachussettts
và hiện đang là Chủ tịch Hiệp hội Kỹ thuật Quốc gia cảnh báo, nước Mỹ
đang tụt sau các nước khác trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
Ông Vest nhận định: “Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore
đang dồn tận lực vì họ đang đói. Họ biết họ phải làm gì… Tôi sợ rằng đến
khi chúng ta nhận ra vị thế của mình bị đe dọa thì đã quá muộn. Hãy nhìn
xem chuyện gì đã xảy ra trong lĩnh vực sản xuất khi người Nhật tiến hành
nghiêm túc. Đến bây giờ, chúng ta mới chỉ đuổi kịp phần nào".
Tham vọng của Tổng thống
Mỹ cũng từng là một đất nước khó khăn. Khi đã gây dựng
được nguồn lực, trở thành kẻ mới nổi trong cục diện thế giới mới, đất
nước này từng bước củng cố vị thế của mình và vươn lên vị trí siêu cường.
Chiến tranh và cuộc chạy đua với Liên Xô đã góp phần
đáng kể biến Mỹ trở thành thiên đường thật sự đối với nhiều nhà khoa học.
Ngân sách được rót liên tục cho các hoạt động nghiên cứu và đào tạo. Chỉ
trong vòng 7 năm sau sự kiện Liên Xô phóng thành công vệ tinh Spunik,
ngân sách liên bang chi cho các hoạt động này đã tăng gấp bốn. Từ năm
1957 đến năm 1973, số người có học vị tiến sĩ tăng mạnh từ 8.611 lên 33.755
người.
Hiện nay, Mỹ vẫn là điểm đến lý tưởng của các du học
sinh quốc tế. Các trường đại học của nước này vẫn chiếm vị trí đầu bảng
trong bảng xếp hạng các trường đại học trên thế giới.
Khi xây dựng hệ thống giáo dục đại học, các nước như
Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore luôn coi Mỹ là mô hình chuẩn. “Mỹ
là điểm tham chiếu cho những gì họ mong muốn đạt được", Aims
C. McGuinness Jr., thành viên cấp cao của Trung tâm Quốc gia về Hệ thống
Quản lý Giáo dục Đại học, đồng thời là cố vấn cho các nước kể trên, cho
biết.
Một số nhà quan sát cho rằng những cảnh báo về nguy cơ
tụt hạng của nước Mỹ trên bảng xếp hạng đại học toàn cầu đã khiến dư luận
lo lắng thái quá. Chẳng hạn, việc số kỹ sư tăng cao ở Ấn Độ hay Trung
Quốc đã bị đánh giá cao quá mức, nếu đánh giá dựa trên các tiêu chuẩn
Mỹ, những đồ án nghiên cứu của các kỹ sư này không đủ tiêu chuẩn. Các
nhà quan sát thừa nhận, hệ thống giáo dục ở các nước khác đang được cải
thiện, nhưng điều đó không có nghĩa là nền giáo dục của Mỹ đi xuống.
“Đây không phải là một trò chơi có tổng bằng 0",
Philip G. Altbach, Giám đốc của Trung tâm Đại học Boston về Giáo dục Đại
học Quốc tế, khẳng định. Ông nói: “Họ mạnh lên không đồng nghĩa với việc
chúng ta sẽ yếu đi".
Hơn thế nữa, đã có những dấu hiệu thay đổi tích cực trong
tư duy của người Mỹ đối với các vấn đề giáo dục. Giáo dục được đánh giá
là bộ truyền động kinh tế và đầu tư vào giáo dục là bước đi đúng đắn,
giúp Mỹ bảo toàn vị thế siêu cường. Trong dự thảo kích thích kinh tế được
quốc hội thông qua đầu năm nay, sinh viên và các dự án nghiên cứu học
thuật cũng nằm trong nhóm đối tượng được ưu tiên hỗ trợ.
Trong bài phát biểu trước Quốc hội, Tổng thống Obama
cũng khẳng định, giáo dục là “một trong ba lĩnh vực có ý nghĩa quyết
định đối với tương lai của nền kinh tế Mỹ”. Đồng thời, ông đặt ra
mục tiêu: đến năm 2020, Mỹ sẽ là nước có tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp cao
nhất thế giới.
Hãy là người đi đầu và là kẻ nối bước nhanh chân
Hầu hết các chuyên gia giáo dục đại học đều miễn cưỡng
khi cho rằng tiền sẽ giúp các trường đại học giải quyết tận gốc những
khó khăn đang gặp phải. Họ không ủng hộ việc theo đuổi mô hình trường
công đang được nhiều nước châu Á ra sức áp dụng.
Ngay cả những người chỉ trích gay gắt nhất hệ thống phân
quyền giáo dục hiện tại cũng phải cau mày trước ý tưởng thành lập một
bộ giáo dục nắm quyền kiểm soát chung của các nước này.
"Điểm yếu của các nhà lập kế hoạch cấp trung
ương là nếu họ hiểu sai, họ sẽ tiến hành sai trên cả hệ thống",
Paula E. Stephan, giảng viên kinh tế của trường Đại học công lập Georgia
nhận xét. Vì thế, sẽ thật sai lầm nếu cho rằng cách thức phân quyền về
các bang là chướng ngại vật, cản trở hệ thống giáo dục Mỹ.
Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc chính phủ
chỉ giữ vai trò là người quan sát trong nỗ lực nâng cao chất lượng giáo
dục. Nếu Mỹ là mô hình để các nước châu Á định hướng nền giáo dục, thì
các nước châu Á cũng là điểm tham chiếu để Mỹ nhìn lại mình và đổi mới
hiệu quả hơn nữa.
Giống như các nước châu Á, Chính phủ Mỹ có thể trở thành
người ươm mầm đổi mới. Từ vị trí quan sát, chính phủ có thể trực tiếp
giám sát và khuyến khích các hoạt động nghiên cứu nhằm tìm ra giải pháp
đáp ứng các yêu cầu kinh tế, xã hội thiết yếu.
Chính phủ Mỹ cũng có thể nhờ đến sự giúp đỡ của các nhóm
cố vấn để vạch ra một hướng đi lâu dài cho nền giáo dục nước này.
Hoặc nước Mỹ có thể nhìn vào lịch sử của chính mình và
học tập. Sau sự kiện Liên Xô phóng thành công vệ tinh Sputnik, chính quyền
liên bang đã mạnh tay rót ngân sách cho giáo dục. Chính sách này đã giúp
hàng nghìn nhà khoa học và kỹ sư tương lai có thể tiếp tục sự nghiệp học
hành, từ đó củng cố vị trí siêu cường giáo dục của Mỹ.
Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, có lẽ hành động có
ý nghĩa nhất của chính quyền Mỹ lúc này là khơi mào cho một cuộc tranh
luận nghiêm túc trên quy mô toàn quốc về vai trò của giáo dục đối với
tương lai đất nước. Ở một chừng mực nào đó, Tổng thống Obama đã làm được
điều này khi đề ra mục tiêu đầy tham vọng cho nền giáo dục Mỹ.
Việc đặt ra những mục tiêu tầm cỡ quốc gia có thể khuyến
khích tính kinh doanh và cạnh tranh, vốn đã trở thành đặc trưng của giáo
dục đại học Mỹ từ bao năm nay. Một chuyên gia giáo dục đã ví von, các
trường đại học Mỹ như một bầy ngựa phi nước đại, kẻ nào dừng lại, kẻ đó
sẽ bị giẫm nát.
Nhưng cũng có thể, điều cần nhất là người Mỹ phải thay
đổi tư duy. Kent Hughes, Giám đốc Dự án về Mỹ và nền kinh tế toàn cầu
của Trung tâm quốc tế Woodrow Wilson nói: "Trong nhiều trường
hợp, chúng ta có thể là người đi đầu. Nhưng có nhiều lúc, chúng ta sẽ
phải học cách trở thành kẻ nối bước nhanh chân".
Huyền Trang
(Lược dịch từ The Chronicle of Higher Education)
(theo VietNamNet) |