(Post 03/01/2007) Năm 2007 sẽ là một năm dự
báo hệ thống đại học (ĐH) Việt Nam có những bước chuyển động mạnh trên
nhiều mặt. Nhưng để có được dù chỉ một trường có tên trong top 50 hay
100 của thế giới, ĐH Việt Nam còn phải làm nhiều việc, quan trọng là tìm
thêm kinh nghiệm và hướng đi thích hợp cho mình. Một bạn đọc ở Mỹ đã viết
về những kinh nghiệm của ĐH Mỹ trên cơ sở các vấn đề của Việt Nam.
Sinh viên
Việt Nam tìm hiểu du học Mỹ tại các buổi giới thiệu - Ảnh: M.Quyên |
|
ĐH Giao thông Thượng Hải, Trung Quốc trong ba năm gần
đây đã xếp loại các trường ĐH trên thế giới dựa theo một loạt các tiêu
chuẩn khách quan như số lượng giải Nobel và bài viết đăng tải trên các
tạp chí chuyên đề nổi tiếng. Có tới 17 trong số 20 trường ĐH đứng đầu
danh sách đó là đại học của Mỹ, và có tới 35 trường của Mỹ nằm trong top
50. Các ĐH của Mỹ hiện đang tuyển dụng 70% trong số những người đoạt giải
Nobel trên toàn thế giới. Theo như một cuộc khảo sát tiến hành năm 2001
thì họ đã "sản xuất" ra khoảng 30% số lượng bài báo khoa học
và công trình nghiên cứu; và 44% trong tổng số các tham luận được trích
dẫn thường xuyên nhất.
Cùng một thời điểm, tỷ lệ phần trăm dân số học ĐH của
Mỹ cao hơn hầu như bất cứ quốc gia nào, khoảng chừng 20% sinh viên thuộc
các gia đình có thu nhập bằng hoặc thấp hơn mức đói nghèo. Một nửa trong
số họ làm thêm ngoài giờ, và 80% sinh viên làm việc để tự nuôi sống bản
thân.
Tại sao người Mỹ lại thành công được như vậy? Rõ ràng
sự giàu có cũng đóng một vai trò nhất định. Mỹ tiêu tốn chi phí để đào
tạo một sinh viên nhiều gấp hai lần mức trung bình do Tổ chức Hợp tác
và phát triển kinh tế OECD đưa ra (vào khoảng 22.000 đô la so với mức
trung bình 10.000 đô la, tính ở năm 2001). Lịch sử lâu đời cũng đóng một
vai trò nào đó. Người Mỹ trước giờ vẫn có niềm say mê đối với giáo dục
ĐH. Những nhà truyền giáo đã lập nên Trường Harvard College năm 1636,
chỉ hai thập kỷ sau khi đặt chân đến vùng New England. Tuy vậy, nguyên
nhân chính giải thích cho thành công của Mỹ lại nằm trong cách tổ chức.
Đây là điều mà các quốc gia khác có thể bắt chước được.
Ba nguyên tắc phổ biến
Nguyên tắc đầu tiên là chính phủ liên bang chỉ đóng một
vai trò rất hạn chế. Nước Mỹ không có một kế hoạch từ trung ương dành
cho các trường ĐH. Họ không coi giảng viên, giáo sư ĐH là các viên chức
nhà nước, như thường thấy ở các nước khác. Thay vì vậy, các trường ĐH
có hàng loạt các nguồn tài trợ, từ chính phủ liên bang cho đến các tổ
chức tôn giáo, từ các sinh viên, cựu sinh viên rủng rỉnh tiền bạc, cho
đến các nhà tài trợ hào phóng như Ezra Cornell, Cornelius Vanderbilt,
Johns Hopkins và John D.Rockefeller. Truyền thống cho và nhận tài trợ
này vẫn tồn tại cho đến ngày nay: trong năm tài chính 2004 các nhà tài
trợ đã đổ vào các ĐH ở Mỹ 24,4 tỉ đô la. Sự quản lý giới hạn của nhà nước
ở đây không có nghĩa là nhà nước quản lý một cách dửng dưng, trên hết
là quản lý vĩ mô. Chính phủ liên bang đã nhiều lần bắt tay can thiệp vào
các ĐH, chẳng hạn như bộ luật Morrill về việc cấp đất đai ban hành năm
1862 đã tạo ra các trường ĐH được cấp đất để xây dựng. Nhà nước rót tiền
vào các trường cao đẳng cộng đồng. Dự luật GI năm 1946 đã mang các trường
ĐH đến tầm tay của mọi người. Chính phủ liên bang vẫn tiếp tục rót hàng
tỉ đô la vào hoạt động khoa học và nghiên cứu.
Nguyên tắc thứ hai là cạnh tranh. Các trường đại học
cạnh tranh với nhau về mọi thứ, từ sinh viên cho đến giáo sư và cả các
ngôi sao bóng rổ. Các giáo sư cạnh tranh để giành được các khoản tài trợ
cho nghiên cứu từ phía chính quyền. Các sinh viên thì cạnh tranh về các
khoản học bổng cao đẳng, đại học hoặc các học bổng nghiên cứu sinh. Điều
này có nghĩa là các học viện thành công không thể nghỉ ngơi (ngủ quên)
trong vinh quang.
Nguyên tắc thứ ba là phải hữu dụng. Ở ĐH Wisconsin: "Khi
cây củ cải của bất kỳ nông dân nào có vấn đề, họ gửi ngay một giáo sư
đến để điều tra sự cố một cách rất khoa học". Henry SteeleCommager,
một nhà sử học người Mỹ thế kỷ 20, lưu ý rằng một người Mỹ bình thường
ở thế kỷ 19 đã coi giáo dục như niềm tin tín ngưỡng của họ miễn là nó
"thiết thực và sinh lời". Sự nhấn mạnh hai chữ "sinh lời"
giữ nguyên nét đặc trưng nổi bật của nền văn hóa ĐH Mỹ. Người Mỹ đã tiên
phong trong nghệ thuật kết nối giữa giới học giả và công nghiệp. Các trường
ĐH Mỹ mỗi năm kiếm được hơn một tỉ đô la nhờ vào tiền bản quyền phát minh
và phí nhượng quyền. Hơn 170 trường ĐH có các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp
kinh doanh và hàng tá các trường khác có các quỹ đầu tư của riêng họ.
Sự đa dạng của "hệ thống"
Sự đa dạng của hệ thống ĐH Mỹ cho phép họ cung cấp một
hệ thống phong phú những loại học viện khác nhau. Chỉ khoảng 100 trong
tổng số 3.200 ĐH của Mỹ là ĐH nghiên cứu. Các trường ĐH công lập đầu ngành
như Michigan, Texas và Berkeley, California đã cung cấp một nền giáo dục
tầm cỡ thế giới với một cái giá gần như cho không. Đa phần còn lại là
các trường cao đẳng cộng đồng, có các nghiên cứu nhỏ và chỉ cung cấp các
khóa học dài hai năm. Tuy nhiên, những sinh viên có khả năng vẫn có thể
chuyển tiếp từ các trường cao đẳng hai năm sang một trường ĐH nghiên cứu
có uy tín.
Các trường tư thục với học phí cao ngất ngưởng, cũng
có chính sách dành cho nhiều đối tượng khác nhau. Chẳng hạn như ĐH Harvard
hiện giảng dạy miễn phí cho những sinh viên mà thu nhập của gia đình ít
hơn 40.000 đô mỗi năm, và giảm học phí đáng kể cho các sinh viên đến từ
các gia đình có thu nhập vào khoảng 40.000 đến 60.000 mỗi năm. Năm rồi,
cũng có một số sinh viên Việt Nam được nhận thẳng vào Harvard, Brown,
Princeton, Yale với học bổng toàn phần. Các trường ĐH hàng đầu khác cũng
có chính sách ưu tiên cho các vận động viên, những người nộp đơn sớm và
con cái của các cựu sinh viên của trường.
Bá Chính
(theo Thanh Niên Online) |