(Post 04/04/2007) Đến mùa thu năm 1979, biên
giới phía Bắc mới coi như tạm yên. Đợt thực tập sinh thứ hai cũng quay
về nước và những ứng viên khác lại sang Pháp. Phòng chúng tôi đổi tên
thành Phòng Kỹ thuật Vi xử lý và do TS Nguyễn Gia Hiểu phụ trách. Chúng
tôi tiếp tục chế tạo chiếc máy tính thứ ba với ổ đĩa mềm và chạy hệ điều
hành CP/M80 để phục vụ anh em Phòng Lập trình bắt đầu viết phần mềm thông
dịch "Basic Đồi Thông", một ngôn ngữ tựa Basic do anh em tự
xây dựng. Viện KH Tính toán và Điều khiển đã trở thành nơi phổ biến kỹ
thuật vi xử lý và nhận nhiều thực tập sinh đến từ những nơi khác. Hình
như chiếc máy tính thứ tư là một hệ phát triển lắp ráp cho trường Đại
học KTQS. Năm 1980, chúng tôi đã gửi thông báo những kết quả này đến một
hội thảo quốc tế ở Sophia. Lúc đó, cố chủ tịch U.S. Committee for Scientific
Cooperation with Vietnam (USCV) Edward Cooperman đến làm việc với lãnh
đạo Viện KH Việt Nam có mời anh Diệu và tôi sang thăm Mỹ.
Thực hiện loạt máy vi tính
VT81 (Photo: Nguyễn Chí Công, 1979) |
|
Kỳ I: VT80 - chiếc
máy vi tính đầu tiên của Việt Nam
Kỳ II: Các thiết
kế mới
Kỳ III: Sản xuất và ứng dụng
Mở đầu năm 1979, đột nhiên chiến tranh biên giới Tây
Nam bùng lên dữ dội rồi quân đội Trung Quốc vượt biên giới phía Bắc. Số
người bỏ nước ra đi bằng thuyền tăng vọt. Các hình ảnh và bình luận về
những thảm hoạ này tràn ngập báo chí, truyền hình phương Tây, Việt Nam
càng bị cô lập hơn, thậm chí nhiều người trong CCSTV quay lưng. Lo lắng
cho mẹ già, tôi vội vã quay về nước với hành lý gồm đầy đủ những vật tư
đã nói ở trên và hệ phát triển của mình. Sân bay Nội Bài vắng lặng, Hà
Nội lục tục sơ tán, cuộc sống xáo trộn ghê gớm. Mọi thứ gần như quay lại
thời Mỹ ném bom miền Bắc.
Tôi vẫn làm việc ở Viện KH Tính toán và Điều khiển. Có
lệnh tổng động viên, thanh niên nhập ngũ, già trẻ, phụ nữ tham gia đào
phòng tuyến và nhiều nhà khoa học phải lên vùng biên giới tẩy uế chiến
trường. Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn bắt tay ngay vào việc chế tạo loạt máy
vi tính VT8X có cả bàn phím với màn hình. Tôi nhớ màn hình đầu tiên là
một chiếc TV Beryl (sau đổi tên là Neptune) trắng đen do VN lắp ráp theo
thiết kế của Ba Lan và được 2 anh Cước, Lợi "chuyển mục đích sử dụng"
một cách tài tình. Có sẵn mạch in, hệ phát triển và các linh kiện hiện
đại nên việc lắp ráp đỡ vất vả hơn trước rất nhiều. Ngoài ra, Viện KH
Tính toán và Điều khiển cũng đã trang bị cho chúng tôi một oscilloscope
của Hungary và hai điều hoà nhiệt độ để làm việc và vượt qua những ngày
nóng ẩm, dĩ nhiên là nếu có điện.
Mùa hè ấy, Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước đã mời
ban lãnh đạo CCSTV với Henri và Alain sang khảo sát và thảo luận biện
pháp đẩy mạnh chuyển giao công nghệ phương Tây, đặc biệt là vi tin học
(ngành tin học ứng dụng kỹ thuật vi xử lý). Hợp tác kỹ thuật nhiều năm
với các nước XHCN đã lộ dần nhiều mảng trống, cho nên đây là một chuyển
hướng sách lược rất quan trọng và đúng đắn, nhưng thật vô cùng tiếc rằng
chỉ được thi hành nửa vời với quá ít kinh phí và tắt dần khi thay người
phụ trách. Tôi đã từng được anh Diệu bảo đến nhà riêng báo cáo trước Phó
Thủ tướng Võ Nguyên Giáp, sau khi thần tượng của tôi - kỹ sư Trần Đại
Nghĩa, anh hùng lao động thời chống Pháp, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học
Liên Xô - lại tỏ ý không tin lắm vào tương lai của tin học (informatique).
Vị cựu Tổng tư lệnh huyền thoại đã đồng ý đầu tư, chỉ nói rằng lẽ ra phải
dịch là "tín học" theo ông hoặc "thông tin học" theo
Chủ tịch QH Trường Chinh (quả là gần với từ "information technology"
mà mãi sau mới được dùng). Những lãnh đạo chính trị tầm cỡ như thế đã
dự cảm đúng và sớm hơn hầu hết thủ lĩnh các nước khác. Thủ tướng Phạm
Văn Đồng còn đến thăm Phòng Kỹ thuật Vi xử lý rồi giao Phó Thủ tướng Đồng
Sĩ Nguyên để dành nửa tầng dưới toà nhà bê tông sẽ xây của Viện Toán học
nhường cho chúng tôi, mặc dù Chủ nhiệm Trần Quỳnh nói: "Chỗ làm việc
của các anh còn tốt chán so với phòng thí nghiệm của Marie Curie cách
đây một thế kỷ !".
Khi cùng Henri đến thăm học giả Nguyễn Khắc Viện, tôi
mới biết Alain còn tham gia Liên đoàn Thực chứng (www.union-rationaliste.org),
nơi tập trung hàng nghìn nhân sĩ nổi tiếng thế giới đã từng tổ chức toà
án Bertrand Russel xét xử tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Trong
tủ sách của bác Viện quả là có hàng trăm cuốn tạp chí của Liên đoàn này,
bìa ghi "Alain Teissonnière, Tiểu ban Triết học". Có lẽ tư duy
triết học thực chứng và tác phong công nghiệp đã mách bảo ông chọn đúng
con đường vi tin học ngay từ buổi kỹ thuật vi xử lý mới ra đời. Gần 30
năm sau, Liên đoàn Thực chứng đã trao giải Union Rationaliste 2005 cho
Alain Teissonnière vì những hoạt động nhân văn không mệt mỏi. Hiện nay
tuy tuổi đã cao nhưng ông vẫn đang hợp tác với Hội nạn nhân chất độc da
cam/điôxin Việt Nam.
Thành phố
Lạng Sơn đổ nát (Photo: Nguyễn Chí Công, 1979) |
|
Trước khi về Pháp, Alain cùng tôi đã liên tiếp thuyết
trình nhiều buổi chuyên đề, tổng cộng số người dự lần này lên đến hàng
trăm, kể cả một số anh em từ Viện Vật lý và các sinh viên đang thực tập
tại Viện KH Tính toán và Điều khiển, thậm chí có những giảng viên đại
học từ miền Nam xa xôi lặn lội ra dự. Thấy thế, chúng tôi bèn vào làm
một đợt tương tự ở ngay TP Hồ Chí Minh, tuy số cử toạ ít hơn nhưng nhiệt
tình thì không hề kém và tôi lại có thêm nhiều đồng nghiệp tài năng, rất
tiếc sau này một số đã phải rời quê hương tìm đường sống.
Đến mùa thu năm 1979, biên giới phía Bắc mới coi như
tạm yên. Đợt thực tập sinh thứ hai cũng quay về nước và những ứng viên
khác lại sang Pháp. Phòng chúng tôi đổi tên thành Phòng Kỹ thuật Vi xử
lý và do TS Nguyễn Gia Hiểu phụ trách. Chúng tôi tiếp tục chế tạo chiếc
máy tính thứ ba với ổ đĩa mềm và chạy hệ điều hành CP/M80 để phục vụ anh
em Phòng Lập trình bắt đầu viết phần mềm thông dịch "Basic Đồi Thông",
một ngôn ngữ tựa Basic do anh em tự xây dựng. Viện KH Tính toán và Điều
khiển đã trở thành nơi phổ biến kỹ thuật vi xử lý và nhận nhiều thực tập
sinh đến từ những nơi khác. Hình như chiếc máy tính thứ tư là một hệ phát
triển lắp ráp cho trường Đại học KTQS. Năm 1980, chúng tôi đã gửi thông
báo những kết quả này đến một hội thảo quốc tế ở Sophia. Lúc đó, cố chủ
tịch U.S. Committee for Scientific Cooperation with Vietnam (USCV) Edward
Cooperman đến làm việc với lãnh đạo Viện KH Việt Nam có mời anh Diệu và
tôi sang thăm Mỹ. Không thông báo lý do, tổ chức đã không cho tôi đi,
lần thứ hai vào năm 1982 cũng thế, mặc dù Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp
đã đồng ý. Năm 1984, GS vật lý Edward Cooperman mới ở tuổi 49 nhưng đã
bị một sinh viên gốc Việt giết chết ngay tại phòng làm việc của mình tại
California State University. Chính vị giáo sư dũng cảm này đã lần lượt
mang mấy máy vi tính Apple IIe sang cho Viện Vật lý và góp phần tạo nên
một nhóm ứng dụng vi tin học ở đó.
Cuối năm 1981, hãng máy tính số 1 thế giới IBM đưa ra
chiếc PC (Personal Computer - máy tính cá nhân) dựa trên chip Intel 8088
và do không mua được CP/M nên đành chạy hệ điều hành DOS của Microsoft
mua lại từ công ty Seatle Computer. Nhưng trước đó, anh Diệu và Alain
đã nhất trí phải ứng dụng vi tin học vào quản lý xí nghiệp chứ không chỉ
dừng ở mức độ tính toán cá nhân (Personal Computing). Anh Phạm Ngọc Khôi
và tôi, Mẫn cùng hai người mới "nhập ngũ" là Giang Công Thế
và Trần Xuân Thuận đem một trong các máy VT8X đi rất xa, đến tận nơi năng
động nhất nước. Ròng rã vài tháng, nhóm này đã trực tiếp phân tích bài
toán và sử dụng ngôn ngữ "Basic Đồi thông" để viết phần mềm
ĐT82 quản lý vật tư cho xí nghiệp sản xuất máy may Sinco, một điển hình
tiên tiến của Sở công nghiệp TP Hồ Chí Minh. Trụ sở và cả nhiều căn hộ
tập thể của Sinco ở trong một cao ốc trên đường Nguyễn Khắc Nhu, Quận
I, vốn là khách sạn đang xây bỏ dở từ 1975, phòng tắm các tầng trên cùng
đã biến thành chuồng lợn, nhưng bể bơi và hội trường ở tầng trệt lại được
gìn giữ tử tế. Tôi tham gia làm việc với anh em tin học từ Sinco, nhà
máy Thuốc lá Vĩnh Hội và các trường, viện khác, nhưng công việc chủ yếu
lại là liên lạc và tìm cách sản xuất hàng loạt các máy VT81 cùng anh Nguyễn
Ngọc Ngoạn, Phó Tổng Giám đốc Liên hiệp các Xí nghiệp Điện tử Việt Nam.
Triển vọng thị trường ngày ấy còn mờ mịt nên cuối cùng Liên hiệp không
dám đầu tư lớn và tôi phải trở ra Bắc trước khi nhìn thấy thành công bước
đầu của nhóm ứng dụng, mặc dù anh Vương Hữu Trường, giám đốc Sinco, còn
chưa truyền xong kinh nghiệm nuôi chim cút. Sau anh Thuận kể lại: ba nhà
lãnh đạo nổi tiếng Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Linh và Mai Chí Thọ đã mời
anh em đến trình diễn những kết quả ứng dụng trong một cuộc họp quan trọng
của Thành ủy rồi cùng dự tiệc chiêu đãi và nhà báo Phước Sanh có đăng
bài trên báo Quân đội Nhân dân.
Sau Tết 1982, tôi được Viện cho đi 6 tháng sang Pháp
để thực tập về thiết kế VLSI (vi mạch cực lớn) và mạng máy tính. Thời
gian này, anh Diệu tiếp tục chỉ đạo 2 phòng KT Vi xử lý và Lập trình cử
một nhóm gồm Mẫn, Khôi, Liên, Tam, Thái, Mỹ và chị Đỗ Việt Nga vào lại
TP Hồ Chí Minh với nhiệm vụ vừa hoàn thiện trình thông dịch "Basic
Đồi Thông", vừa thí điểm dùng ĐT82 để quản lý vật tư cho Xí nghiệp
Điện tử Tân Bình.
Cứ như vậy, với sự giúp đỡ của Alain trong 10 năm đến
khi ông mắc bệnh hiểm nghèo, không kể thực tập sinh tin học của các trường,
viện khác, chỉ riêng Viện KH Tính toán và Điều khiển đã gửi được sang
Pháp khoảng 30 anh chị. Chủ trương này lúc ấy rất hiệu quả, hầu hết những
tri thức do thực tập sinh đem về nước đã giúp cho các máy vi tính từ VT8X
đến những đời tiếp theo được đưa vào các ứng dụng khác nhau, dù chỉ sản
xuất được loạt nhỏ vì bị cấm vận và tài chính hạn chế. Thậm chí, tôi và
nhóm anh Mẫn đã đưa được máy PC/XT với đĩa cứng và nhiều phần mềm Mỹ vào
ứng dụng lần đầu tiên trong Văn phòng Chính phủ, rồi được thưởng mỗi người
mấy mét vải, của hiếm ở thời tem phiếu. Ngoài ra, tôi và một vài anh em
khác còn trực tiếp tham gia thực hiện những ứng dụng đặc biệt mà có lẽ
sẽ được kể trong dịp khác...
Các máy
VT82, VT83 được chế tạo tiếp theo (Photo: Nguyễn Chí Công, 1982) |
|
Trong sự khốn khổ của chế độ bao cấp, chủ nghĩa cá nhân
càng ngày càng lấn át, dẫn tới việc nhiều người trong chúng tôi đã bị
vô hiệu hoá hoặc phải ra đi, để lại các "đứa con tinh thần"
của mình bị người ta đem bán cho ... đồng nát. Bên Mỹ, hãng Apple đã phải
mua lại chiếc máy vi tính đầu tiên của họ với giá đắt hơn hàng trăm lần
để đưa vào bảo tàng. Còn ở Hà Nội, một số quan chức có học vị nhưng không
cập nhật kiến thức đã hiểu sai, gây chậm trễ hoặc thậm chí lái sách lược
vi tin học sang hướng có lợi cho cá nhân, vô tình góp phần làm mất cơ
hội phát triển công nghiệp thông tin mà chỉ vài năm sau những con hổ châu
Á đều biết chọn như vũ khí kinh tế hàng đầu. Thời đổi mới cuối cùng cũng
đến và năm 1988 tôi đã cùng tham gia thành lập công ty FPT với chiếc máy
vi tính của riêng mình còn sót lại... nhưng phải mất hàng chục năm sau
để có thể làm thuê gia công phần mềm cho nước ngoài.
Những bài học lịch sử nói trên đến bây giờ vẫn có ích
chăng? Báo chí và dư luận gần đây tiếp tục nói về sự lãng phí sức người
và tiền của nhân dân ở mức độ rộng lớn trong khu vực nhà nước với tàn
dư của sự níu vớt độc quyền quản lý, trong khi lẽ ra phải tạo mọi điều
kiện để các doanh nhân (entrepreneurs) phát triển phù hợp với chủ trương
"công nghiệp hoá" của đổi mới. Đặc biệt, tôi muốn nói tới công
nghiệp thông tin là lĩnh vực kinh tế mũi nhọn mà Việt Nam đang phải nhập
siêu, chứ không phải công nghệ thông tin là những sản phẩm trí tuệ đã
có thể chuyển giao khá dễ dàng và trực tiếp từ nguồn sáng chế với thời
gian và chi phí rút gọn hơn tự làm rất nhiều.
Nguyễn Chí Công
(theo Tạp chí Tin học & Đời sống) |