(Post 26/04/2008) Trong lộ trình chuyển đổi
từ hệ niên chế sang hệ tín chí, các trường ĐH cỡ trung bình và lớn ở
Việt Nam sẽ phải có kế hoạch áp dụng CNTT trong việc quản lý học tập
của sinh viên.
Toàn
cảnh buổi toạ đàm "Ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục"
tại TP.HCM. Ảnh: Nguyễn Dũng |
|
Các bài đã đăng:
Quản lý học tập của SV: CNTT nên đi trước 1
bước
Khi chuyển sang đào tạo theo hệ tín chỉ, số lượng công
việc liên quan đến thông tin về sinh viên tăng lên một cách đáng kể.
Ví dụ, các thông báo DARS nói đến ở trên cần phải được
nhanh chóng cập nhật sau mỗi học kỳ và gửi đến cho sinh viên, vì việc
đăng ký các môn học tiếp theo phụ thuộc vào kết quả học trước đó được
phản ánh lại trong DARS. Còn có rất nhiều những chi tiết rắc rối khác
liên quan đến các yêu cầu khác nhau của các khoa, các chương trình chuyên
ngành, v.v…
Những trường ĐH nhỏ, với khoảng một vài nghìn sinh
viên, có thể vẫn vận hành được bằng những phương pháp thủ công kết hợp
với áp dụng vi tính văn phòng, vì việc vào điểm thủ công và in thủ công
các thông báo DARS cho một hoặc hai nghìn sinh viên, tuy rất vất vả
và mất nhiều thời gian, có thể vẫn làm được.
Nhưng độ phức tạp của công việc này tăng lên rất nhanh
khi số lượng sinh viên môn học và chuyên ngành tăng. Với những trường
lớn trên 10 nghìn sinh viên và đào tạo theo hệ tín chỉ, nếu không áp
dụng CNTT thì việc đăng ký học của sinh viên chắc chắn sẽ rất lộn xộn,
các trường sẽ phải đơn giản hóa thủ tục đến mức mà phải thỏa hiệp hầu
hết các yêu cầu chặt chẽ về đăng ký học, tức là làm cho hệ đào tạo không
thực sự còn là hệ tín chỉ nữa!
Công nghệ thông tin áp dụng trong trường ĐH chủ yếu
thông qua 3 bộ phần mềm về nhân sự (HR), tài chính (finance) và hệ thông
tin sinh viên (SIS).
Nói chung, những hệ này có thể được triển khai độc
lập, tuy nhiên xu hướng hiện nay ở các trường ĐH ở Mỹ là sử dụng các
hệ thống phần mềm tích hợp tương tự như các hệ ERP (enterprise resource
planning) của các doanh nghiệp. Hệ thông tin sinh viên (TTSV) đóng vai
trò như phần quan hệ khách hàng (CRM) trong ERP của doanh nghiệp, nhưng
nó có nhiều tính chất đặc thù, phức tạp hơn, và nói chung là khác các
hệ CRM dành cho các doanh nghiệp.
Không đi vào chi tiết của việc ứng dụng CNTT trong
các trường ĐH, tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng trong lộ trình chuyển đổi
từ hệ niên chế sang hệ tín chỉ, các trường ĐH cỡ trung bình và lớn ở
Việt Nam sẽ phải có kế hoạch áp dụng CNTT trong việc quản lý học tập
của sinh viên.
Nếu điều kiện chưa cho phép, có thể chưa áp dụng ERP
trong trường, hoặc chưa có một hệ TTSV đầy đủ, nhưng ít nhất cũng cần
một hệ TTSV đủ để hỗ trợ cho việc đào tạo theo hệ tín chỉ (hệ TTSV đăng
ký học).
Phần mềm hệ TTSV: Nên "nội hóa"
Có lẽ hiện nay ở Việt Nam chưa có những hệ thống phần
mềm đáp ứng những yêu cầu này. Thông thường, khi một công ty phần mềm
thiết kế một hệ thống mới cho một doanh nghiệp, họ và doanh nghiệp kết
hợp với nhau thành lập một đội hỗn hợp gồm nhân viên của hai bên để
thảo luận về các chức năng cần thiết và quy trình vận hành.
Nhưng các kỹ sư phần mềm của Việt Nam chưa có điều
kiện để tìm hiểu các chức năng cần có của một hệ thông tin SV trong
trường ĐH, còn các công chức và nhân viên ở các trường ĐH cũng nói chung
là chưa có nhiều kinh nghiệm sử dụng các hệ thông tin SV, và điều đó
là trở ngại lớn cho việc hợp tác.
Việc hy vọng các tổ chức quốc tế sẽ cho không các trường
ĐH Việt Nam các phần mềm hệ TTSV là phi thực tế.
Ngay cả khi họ cho không, những sản phẩm đó cũng không
thể sử dụng ngay được, vì các hệ TTSV không phải là một phần mềm đóng
gói cứ cài đặt vào máy là chạy. Các hệ thống chỉ chung nhau một cái
“lõi”, còn khi áp dụng vào từng trường ĐH thì phải thay đổi rất nhiều
để phù hợp với các đặc điểm riêng của từng trường.
Thông thường ở Mỹ, giá của phần mềm chỉ chiếm khoảng
15% tổng chi phí để triển khai một hệ TTSV, còn lại là phần cứng (10%),
tư vấn từ công ty cung cấp dịch vụ (45%) , chi phí cho đội ngũ triển
khai từ phía nhà trường (20%) và chi phí đào tạo sử dụng (10%).
Nếu một công ty phần mềm ở nước ngoài miễn phí cho
các trường ĐH ở Việt Nam giá thành của phần mềm, thì cũng vẫn phải trả
chi phí tư vấn để triển khai, tức là lương cho nhân viên của họ sang
để sửa đổi, bổ sung, chuyển giao,… Những chi phí này rất lớn vì khối
lượng công việc phải làm thêm rất nhiều (tính đến các sự khác nhau giữa
các hệ thống ĐH của Mỹ và Việt Nam), cộng với các chi phí vé máy bay,
khách sạn,... Ngoài ra, mỗi khi có vấn đề gì cần giải quyết gấp thì
khoảng cách địa lý xa sẽ gây nhiều trở ngại và chi phí lớn.
Vì những lý do trên, giải pháp sử dụng các hệ TTSV
của các công ty phần mềm Việt Nam sản xuất vẫn thực tế hơn cả.
Nói chung, ở Việt Nam có nhiều lập trình viên rất giỏi,
như là một dàn nhạc đã có đầy đủ các nhạc công giỏi. Cho nên có thể
tin rằng nếu có một sự hợp tác tốt giữa các công ty phần mềm và các
trường ĐH, thì có thể thiết kế và cho ra đời thành công phần mềm hệ
TTSV đáp ứng các yêu cầu của việc chuyển đổi giáo dục ĐH Việt Nam sang
hệ tín chỉ, như kế hoạch của Bộ GD&ĐT.
(Còn tiếp)
GS Vũ Quốc Phóng (ĐH Ohio - Mỹ)
(theo VietNamNet) |