(Post 02/10/2008) Ông Lê Trường Tùng, Hiệu
trưởng trường ĐH FPT ví nguồn nhân lực cũng như nguồn khoáng sản, nếu
không biết khai thác, các nước khác sẽ chớp thời cơ.
TS. Lê
Trường Tùng, hiệu trưởng ĐH FPT trong một dịp trả lời phỏng vấn
phóng viên báo đài |
|
Trao đổi xung quanh tham vọng xem nhân lực là yếu tố
then chốt và thế mạnh để phát triển, với tầm nhìn đến năm 2017 Việt Nam
trở thành một trong 5 quốc gia cung cấp nguồn nhân lực CNTT lớn nhất thế
giới, cùng với dàn lãnh đạo mới, ông Lê Trường Tùng - Phó Chủ tịch Hội
tin học Việt Nam, Hiệu trưởng Đại học FPT nói:
Trong tương lai nếu khéo làm, việc đó hoàn toàn có
thể thành công. Giống như một số quốc gia có thể tự hào về nguồn tài nguyên
của mình, thì Việt Nam cũng có thể tự hào rằng tài nguyên lớn nhất của
chúng ta là nguồn nhân lực. Việt Nam có hơn 80 triệu dân trong đó trên
một nửa dưới 30 tuổi, bây giờ liệt kê những nước có được yếu tố như vậy
không phải dễ.
Bản thân nhân lực cũng chính là vị thế của chúng
ta trong nền kinh thế thế giới nói chung. Bởi vì, đối với các nước khác,
hiện ngành CNTT đi nhanh hơn các ngành khác, nên khả năng đáp ứng về nguồn
nhân lực cũng có phần hạn chế. Khi đó họ phải tìm nhân lực từ những nước
khác.
Như những tài nguyên khoáng sản cách đây hàng trăm
năm vẫn nằm ở dưới đất, nếu chúng ta không khai thác thì cũng có nước
khác nhảy vào khai thác. Bây giờ, nguồn nhân lực cũng giống như nguồn
khoáng sản vậy.
Trên thực tế hiện vẫn đang tồn tại nhiều bất
cập, trong đó bất cập lớn nhất là khoảng cách lớn - cả chất lượng và số
lượng - giữa đầu ra nói chung của đào tạo đại học hiện nay với nhu cầu
của ngành công nghiệp CNTT. Ông nghĩ sao về vấn đề này?
Hiện tại nhân lực kể cả về mặt số lượng và chất lượng
vẫn đang đi sau một bước so với nhu cầu của ngành. Trên thực tế có nhiều
lý do khác nhau, nhưng một trong những lý do cơ bản là hệ thống đào tạo
của ta vẫn mang những yếu tố đào tạo theo quan điểm kế hoạch hoá.
Như trường Đại học Bách khoa, ĐH Khoa học tự nhiên,
ĐH Công nghiệp mỗi năm tuyển 300 sinh viên ngành CNTT. Trong quá trình
học tập 300 sinh viên này được loại dần cho đến khi tốt nghiệp cũng chỉ
còn khoảng 200 sinh viên. Với lượng sinh viên tốt nghiệp như vậy chỉ bằng
lượng tuyển mới của một công ty phầm mềm quy mô nhỏ. Làm một phép tính
đơn giản, một trường ĐH lớn chỉ đủ cung ứng nhân lực cho một công ty phầm
mềm nhỏ. Giờ một công ty phầm mềm lớn cần 2.000 nhân viên mới, thì 10
trường ĐH gộp lại cũng không đủ.
Từ đây có thể thấy được sự chênh lệch, không khớp.
Một bên có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh, mỗi năm tăng trưởng từ
30-40%, còn một bên sự tăng trưởng trong năm chỉ có 10%.
Còn về chất lượng, định hướng đào tạo hiện nay vẫn
mang tính chất hàm lâm, định hướng nghiên cứu, trong khi ngành CNTT lại
mang tính chất ngành kinh tế kỹ thuật. Nói một cách chính xác hơn, chúng
ta đang đào tạo nhân lực như đào tạo nhân lực cho một lĩnh vực hoạt động
khoa học, trong khi ngành CNTT lại là một ngành kinh tế kỹ thuật.
Vậy giải pháp cho vấn đề này là như thế nào,
thưa ông?
Giải pháp quan trọng nhất hiện nay là phải đưa yếu
tố thị trường vào đào tạo, bởi bản thân CNTT là một lĩnh vực kinh tế hoạt
động trong thị trường nên chuyện đào tạo CNTT cũng phải theo cơ chế thị
trường thì mới khớp được với nhau.
Thị trường bắt đầu từ chuyện quyền được học của người
học như thế nào? dạy cái gì? học phí ra sao…? Mọi cái theo cơ chế thị
trường, tất nhiên sẽ có khó khăn trong việc quản lý về mặt nhà nước, nhưng
đó là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước nhằm tạo một hành lang
cộng với cơ chế quản lý kiểm soát đi kèm.
Thực ra khi nước ta bắt đầu trở thành thành viên
chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới, thế mạnh là nguồn nhân lực.
Thế nhưng, thực tế hiện tại cái mình mạnh đang là mạnh ở lao động phổ
thông và nếu chỉ mạnh ở lao động phổ thông không thì không còn sự hấp
dẫn đối với các nhà đầu tư. Khi mà nền kinh tế dịch chuyển sang ngành
kinh tế công nghệ cao, cách thức giải quyết mà Thủ tướng đã chỉ đạo rất
rõ ràng, là áp dụng cơ chế thị trường trong vấn đề đào tạo sau phổ thông,
ít nhất là cho các ngành khoa học công nghệ và kinh tế.
Nhưng, nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn là bài toán
nan giải của các doanh nghiệp CNTT...
Có cái khó là như thế này, để có sinh viên ra trường
thì phải mất thời gian 3-4 năm, trong khi đó doanh nghiệp có thể thành
lập ngay. Đào tạo ĐH mỗi năm tốt nghiệp 1 lần, mà doanh nghiệp có thể
tuyển quanh năm, đó là chưa nói tới chuyện số lượng mỗi trường, mỗi năm
chỉ có số lượng hạn chế sinh viên tốt nghiệp. Hiện những công ty lớn đều
phải làm việc với tất cả các trường để tìm nhân lực.
Ông nghĩ sao về quan hệ giữa doanh nghiệp và
đơn vị đào tạo?
Trước tiên đó là quan hệ hữu cơ với nhau, về mặt
nguyên tắc, đào tạo cũng giống như một hoạt động của doanh nghiệp.
Đầu ra của các cơ sở đào tạo là các doanh nghiệp,
thì trách nhiệm của các cơ sở đào tạo phải làm thế nào để "sản phẩm"
của mình làm ra phải được chấp nhận. Ngược lại bản thân các doanh nghiệp
cũng không thể đứng ngoài cuộc, doanh nghiệp cũng phải tham gia trong
khả năng mà doanh nghiệp có.
Doanh nghiệp phải phối hợp với cơ sở đào tạo để đặt
ra được những yêu cầu của mình: sinh viên tốt nghiệp cần phải có những
kiến thức như thế nào? Để có thể tham gia ngay vào các khâu làm việc của
các doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể tạo điều kiện để cho sinh viên trong
quá trình học thực tập rèn luyện thêm kỹ năng của mình. Doanh nghiệp cũng
nên cử nhân viên của mình tham gia đào tạo cùng các cơ sở đào tạo và nếu
như trong trường hợp cần thiết thì đầu tư để đào tạo.
Hiện tại ĐH FPT có bắt tay với doanh nghiệp nào
không thưa ông? Nếu có thì mô hình của trường có khác gì với mô hình đào
tạo truyền thống hiện nay?
Bản thân FPT là một doanh nghiệp và trong quá trình
hoạt động cần phải hợp tác với rất nhiều doanh nghiệp khác. Trên thực
tế ĐH FPT mới chỉ thành lập có 18 tháng nhưng trong quá trình làm việc
nhà trường thấy một điều rất rõ là việc FPT có Đại học FPT đang là một
yếu tố rất quan trọng để các doanh nghiệp khác quyết định làm việc với
FPT hay không.
Xuất phát từ một trường do doanh nghiệp đứng ra đầu
tư chứ không phải một tổ chức xã hội hay dùng ngân sách của nhà nước để
làm, mô hình của Đại học FPT là hướng tới mục tiêu cuối cùng chứ không
phải hướng tới chuyện bằng cấp sau này. Nhưng tất nhiên vẫn phải theo
tiêu chuẩn quốc tế để đảm bảo nội dung, tuân theo chuẩn, đủ trình độ,
đủ khối lượng tri thức để cấp bằng ĐH theo tiêu chuẩn chung. Nhưng mục
tiêu cuối cùng là trở thành thành viên trong nền kinh tế CNTT.
Ông có một lời khuyên nào cho các bạn trẻ Việt
Nam yêu thích CNTT?
Trước tiên là phải định hướng được mục tiêu thật
rõ, như sau 5 năm học sẽ làm gì, xa hơn nữa là 10 năm sẽ làm gì. Lúc đó
sẽ quyết định được mình học cái gì chứ không đơn thuần từ những cái thích
nhất thời. Ngoài ra cần những yếu tố khác như ngoại ngữ, cập nhật công
nghệ và niềm say mê là những yếu tố cần thiết đối với các bạn trẻ yêu
thích CNTT. Nếu biết nhiều ngoại ngữ thì càng tốt, nhưng ít nhất cũng
phải thông thạo Anh ngữ. Công nghệ mỗi ngày mỗi mới, không trau dồi thì
sẽ bị tụt lại phía sau. Còn niềm say mê, theo tôi là rất quan trọng, đã
say mê thì những yếu tố khác tin chắc là nằm trong tầm tay. Cơ hội phía
trước, các bạn trẻ hãy tự tin vào chính bản thân mình!
Xin cám ơn ông.
Ngọc Tuấn
(theo ICTnews) |