(Post 06/10/2010) Ông Lê Trường Tùng, Hiệu
trưởng trường Đại học FPT cho rằng, Chỉ
thị 58 đã tạo ra sinh khí mới cho ngành CNTT phát triển rất mạnh trong
5 năm đầu nhưng luồng sinh khí này bị trầm lắng dần, đặc biệt là sau Đề
án 112.
|
Theo ông Tùng, ý nghĩa lớn nhất của Chỉ thị 58 là đã
làm thay đổi và nâng cao nhận thức về CNTT từ cấp cao nhất. Và từ khi
có chỉ thị này, CNTT không còn phát triển tự phát nữa mà đã trở thành
đường hướng chỉ đạo từ cấp chỉ đạo cao nhất của Đảng và các cấp uỷ. Chỉ
thị 58 đã nêu rõ tầm quan trọng của CNTT trong công cuộc công nghiệp hoá
và hiện đại hoá đất nước, nêu ra những việc cần làm để đẩy ứng dụng, phát
triển công nghiệp CNTT, phát triển viễn thông, Internet, nguồn nhân lực,
những thay đổi quan điểm quản lý sao cho phù hợp hay cần lôi kéo các thành
phần kinh tế tham gia như thế nào. Sau khi được Bộ Chính trị thông qua,
Chỉ thị 58 đã mở đường cho sự ra đời của một loạt kế hoạch, nghị định
về ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước, về phát triển phần mềm kéo theo
là các chính sách ưu đãi miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp.
Nhà nước đầu tư không tương xứng
Đến nay, hầu hết những giải pháp chính trong Chỉ thị
58 đã được thực hiện. Ví dụ, quan điểm mở cửa thị trường, cạnh tranh trong
lĩnh vực viễn thông đã hình thành nên tập đoàn Viettel, biến di động trở
thành dịch vụ bình dân. Hay như quan điểm yêu cầu năng lực quản lý phải
theo kịp trình độ phát triển đã tạo động lực cho Internet tăng trưởng
mạnh sau 10 năm.
Sau 10 năm thực hiện Chỉ thị 58, ông Tùng cho rằng ngành
CNTT đã thay đổi rất nhiều. Mức độ ứng dụng CNTT đã khác hẳn trước đây,
nhất là ngành tài chính, ngân hàng và hải quan. Lĩnh vực đào tạo nhân
lực CNTT cũng có những con số rất ấn tượng, từ chỗ chỉ vài trường
đào tạo CNTT đến nay đã có gần 400 trường đào tạo ngành này. Nhưng
thành quả rõ rệt nhất là lĩnh vực viễn thông và Internet đã phát triển
rất tốt trong 10 năm qua. Kết quả này có lý do chủ quan là các chính sách
quản lý cởi mở, không cấm đoán nhưng cũng có lý do khách quan là vì khi
đó đầu tư cho hạ tầng viễn thông còn ít. Vì vậy, Việt Nam không phải cân
đối giữa hạ tầng cũ và mới như các nước mà mạnh dạn đầu tư vào các công
nghệ mới.
Mặc dù khẳng định những định hướng lớn của Chỉ thị 58
là đúng nhưng ông Tùng cho rằng còn nhiều mục tiêu của chỉ thị này thực
hiện không như mong muốn. Chẳng hạn như mục tiêu đào
tạo 50.000 chuyên gia CNTT trình độ ngang bằng khu vực đến nay có
thể nhận định là đã đạt được về số lượng nhưng chất thì chưa. Hay mục
tiêu đưa tiếng Anh vào đào tạo trong các ngành học CNTT thực tế cũng không
có chuyển biến, chủ yếu vẫn là sự tự giác của các trường. Chính vì vậy,
nhân lực CNTT đến nay vẫn là điểm yếu của ngành CNTT. Các doanh nghiệp
vẫn than phiền về chất lượng, còn nước ngoài cũng mới đánh giá cao nhân
lực CNTT của Việt Nam ở thế mạnh giá rẻ.
Về ứng dụng CNTT và Chính phủ điện tử, ông Tùng cho rằng
“các nước khác đang đi nhanh hơn chúng ta”. Ngoài các chỉ thị và nghị
quyết, theo ông Tùng, mức độ đầu tư cho CNTT của nhà nước trong thời gian
qua chưa tương xứng. Các kế hoạch ứng dụng CNTT đưa ra các con số rất
ấn tượng nhưng con số thực tế khi triển khai không nhiều, đặc biệt là
so với đầu tư vào các lĩnh vực khác. Nguyên nhân có phần do đầu tư cho
CNTT khó do phần cứng lạc hậu nhanh, còn phần mềm khó đo đếm chi phí và
hiệu quả. Tuy nhiên, nếu cơ quan quản lý nhận ra được vấn đề này từ sớm
và có những cách hợp lý hoá câu chuyện đầu tư cho CNTT để đầu tư đủ và
coi đầu tư cho CNTT như đầu tư vào các hạ tầng quan trọng (như giao thông)
thì có lẽ mọi chuyện sẽ khác. Chính vì vậy, những kết quả đạt được về
ứng dụng CNTT có giới hạn nhất định so với mục tiêu đặt ra.
Cần luồng sinh khí mới
Trước đây, vào thời điểm năm 2000-2001, sau khi có Chỉ
thị 58, các phương tiện truyền thông suốt ngày nói đến CNTT, coi đó là
“sự lựa chọn của tương lai”. Các địa phương cũng tích cực đầu tư xây dựng
các khu công nghiệp phần mềm tập trung và kết quả điển hình là khu công
nghiệp phần mềm Quang Trung ở TP.HCM. Và thực tế, ngành CNTT đã phát triển
rất nhanh trong 5 năm đầu (từ 2000-2005). Nhưng sau năm 2005, không khí
phát triển CNTT không còn được như 5 năm đầu.
Vì vậy, mặc dù khẳng định các định hướng chung của Chỉ
thị 58 đến nay vẫn đúng nhưng ông Tùng cho rằng thời gian tới vẫn nên
có một văn kiện mới có hiệu lực chính trị mạnh hơn Chỉ thị 58 để hâm nóng
lại và tạo ra khí thế mới cho ngành CNTT. Theo ông, văn kiện đó tốt nhất
vẫn phải là văn bản do cấp cao nhất là Bộ Chính trị ban hành và sẽ tốt
hơn nếu CNTT được nhấn mạnh trong Nghị quyết Đại hội Đảng XI sắp tới.
Cách đây 10 năm, Chỉ thị 58 định hướng phát triển CNTT
để phục vụ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Nhưng trong bối cảnh
toàn cầu hoá hiện nay, khái niệm công nghiệp hoá đã khác trước, không
còn là hình ảnh những nhà máy ống khói ngút trời nữa mà chuyển dịch sang
định hướng là ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám cao. Vì vậy, ông Tùng
góp ý định hướng phát triển CNTT trong văn kiện mới nên có thay đổi theo
xu hướng đó.
Về vấn đề nhân lực CNTT, ông Tùng mong muốn nên có thay
đổi toàn diện trong tư duy quản lý, coi đào
tạo nhân lực CNTT như là ngành kinh tế tuân thủ theo các quy luật
của thị trường. Các trường đào tạo
CNTT được tự chủ về tài chính, về chỉ tiêu tuyển sinh cũng như nội
dung đào tạo. Nếu được như vậy, ông Tùng tin rằng cơ chế thị trường sẽ
thúc đẩy chất lượng nguồn nhân lực
CNTT.
Duy An - Ngọc Minh
(báo Bưu điện Việt Nam) |