(Post 21/04/2007) Bao giờ “cung” mới gặp “cầu”?
Đó là câu hỏi – năm nào cũng được hỏi – đặt ra trước các nhà cung ứng
và nhà tuyển dụng lao động. Và chắc chắn không ai trả lời chính xác thời
điểm “hợp long” khi chúng ta còn chưa biết thị trường đòi hỏi cụ thể gì
ở các cơ sở đào tạo. Và nhà trường – tuy than rằng nhà tuyển dụng được
hưởng lợi từ kết quả đào tạo mà không phải đóng góp nhiều - thực sự cũng
mới chỉ dừng lại ở mức đào tạo theo sở thích của người học, theo kiểu
cứ “nộp phí” thì “có đào tạo”. Rất ít trường dám “đụng” những chuyên ngành
“không ai thích học” nhưng rất cần cho xã hội như các môn khoa học cơ
bản, kỹ thuật, cơ khí…
Thầy Nguyễn
Đình Chương (bên trái) tốt nghiệp Khoa Chế tạo máy ĐH Bách khoa
TPHCM, hướng dẫn học sinh Trường Kỹ thuật Việt Nam - Singapore
trên máy cắt dây EDM công nghệ CNC. Ảnh: Thái Bằng |
|
Các phần đã đăng:
Người mua chê “sản phẩm”
Đầu tháng 3, Công ty Thực phẩm Vilad (thuộc FG Group)
tức tốc đăng thông báo tuyển dụng các chức danh giám đốc và trợ lý giám
đốc nhãn hàng để phục vụ nhu cầu kinh doanh. Chỉ một tuần sau, với hy
vọng có chỗ làm triển vọng và khả năng thăng tiến, số người nộp hồ sơ
dự tuyển ở bộ phận nhân sự của hãng đã lên tới 700 người, trong đó ứng
viên người nước ngoài chiếm 10% và đặc biệt có đến 40% là số sinh viên
khối ngành kinh tế mới tốt nghiệp. Sau khi đọc kỹ hồ sơ, săm soi từng
chi tiết bảng thành tích “bạch” theo kiểu “vào từng ngõ, gõ từng nhà,
rà từng đối tượng”, rốt cuộc công ty cũng lựa ra 50 người có nhiều ưu
điểm hơn cả để mời đến phỏng vấn. Và kết cục dù nhu cầu nhân lực còn rất
cao, Vilad cũng chỉ “gật” được 2 người… đã từng có kinh nghiệm làm giám
đốc nhãn hàng của 2 công ty lớn của nước ngoài tại VN.
Tại sao không lựa được người vừa trẻ, vừa có tài, có
tâm, có kỹ năng giao tiếp? Ông Trần Hòa Bình, Phó Tổng Giám đốc Vilad
thở dài: “Sinh viên của chúng ta mặc dù phải học rất nhiều thứ nhưng ít
được thực hành nên khi đi làm “đụng” đến công việc đều phải “học” lại
cái lẽ ra phải được chuẩn bị từ trong trường ĐH. Nghĩa là, khi hỏi vấn
đề gì thì tất cả đều trả lời rất chuẩn bằng những… khái niệm và định nghĩa
có sẵn trong giáo trình. Và đều dừng lại ở mức đó. Thêm nữa là họ rất
rụt rè khi phải phát biểu, trình bày kế hoạch”.
Theo ông, kỹ năng thiếu nhất của đa phần sinh viên chúng
ta là kỹ năng tổ chức và kỹ năng điều phối, kết nối. Có thể đó là do bản
tính cố hữu của người Việt - cái tính “ta về ta tắm ao ta” - khiến việc
mình thì làm được, còn phối hợp cộng đồng, thoát chuyên môn hẹp để ra
“ao người” thì lại trục trặc không “tắm” được. Đến mức, ông Bình phải
đề xuất do khó kiếm được sinh viên tốt nghiệp ngành marketing theo như
đòi hỏi của công ty ông, thôi thì thầy dạy ở các trường cũng nên làm…
giám đốc marketing ở một công ty nào đó để chính họ được “va chạm” nhằm
thu hẹp khoảng cách giữa lý thuyết và thực tiễn cuộc sống!
Thầy Nguyễn Đình Chương (bên trái) tốt nghiệp Khoa Chế tạo máy ĐH Bách
khoa TPHCM, hướng dẫn học sinh Trường Kỹ thuật Việt Nam - Singapore trên
máy cắt dây EDM công nghệ CNC. Ảnh: Thái Bằng
Một doanh nghiệp khác thuộc khối sản xuất cũng nêu tình trạng tương tự
khi tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp: Ai dự tuyển cũng có 2-3 chứng chỉ
về trình độ vi tính và bằng C tiếng Anh nhưng sau khi kiểm tra thì số
“tạm tuyển” chỉ đạt chưa tới 10%! Ông này kêu trời “sao họ thiếu nhiều
thứ thế, nào là thiếu kỹ năng soạn thảo văn bản, kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng tổ chức không gian làm việc, kỹ năng viết báo cáo, kỹ năng đàm phán
và thuyết phục… và chỉ có mỗi cái tạm được là sức khỏe tốt”.
Còn riêng khoản “sinh ngữ” thì “hết nói”. Ngay như ông
giám đốc Công ty Saigontourist cũng phải than vãn có tới 70% số sinh viên
tốt nghiệp khoa ngoại ngữ… chỉ được cái giỏi nói tiếng Việt. Vì vậy, kiểm
định qua kết quả điều tra của TS Vũ Thị Phương Anh (Trung tâm Khảo thí
và Đánh giá chất lượng đào tạo thuộc ĐHQG TPHCM) và Th.S Nguyễn Bích Hạnh
(Trường ĐH KHXH-NV) được biết: Mặt bằng trình độ sinh viên bắt đầu năm
thứ 3 chỉ mới đạt trong khoảng 360 - 370 điểm TOEFL hoặc 3,5 điểm IELTS
– đây là số điểm ở trình độ rất thấp so với thế giới. Và ở mức “sơ khởi”
này, sinh viên chưa thể tham gia vào các cuộc trao đổi ý kiến mà chỉ tiếp
nhận thông tin đơn giản.
Đấy là tất cả câu chuyện về trình độ chuyên môn của nguồn
nhân lực “cổ cồn”. Còn ở tầm lao động giản đơn liệu tình thế có khá hơn?
Xin thưa là chất lượng cũng vậy, cũng khó có sức “bơi” được tới con tàu
“WTO”. Đầu năm 2007, các KCN – KCX thành phố cần tuyển 10.000 lao động
phổ thông cho các ngành dệt – may, cơ khí, lắp ráp điện tử với mức lương
khởi điểm 1 triệu đồng/người/tháng, song tìm đỏ mắt cũng mới kiếm ra 20%
số lao động đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
TS Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp
VN lý giải: “Bán cái khách hàng cần, thay vì bán cái mình có” là câu châm
ngôn tưởng như đơn giản nhưng không phải dễ thực hiện. Bản chất của nó
là các đơn vị đào tạo phải xuất phát từ phân tích nhu cầu của khách hàng
trước khi bắt tay vào “sản xuất”. Và chất lượng của “sản phẩm” cũng do
khách hàng đánh giá và quyết định! Thiết kế nội dung đào tạo hiện nay
vẫn đang gặp nhiều trở ngại do thiếu tư duy “định hướng khách hàng” và
do đó, chất lượng đào tạo cũng đương nhiên chưa đáp ứng tốt yêu cầu của
khách hàng.
Người bán đói “đơn đặt hàng”
Dĩ nhiên, về phần mình, các cơ sở đào tạo – từ đã có
“thương hiệu” đến mới “ra ràng” – tuy có thừa nhận còn “bất cập” trong
đào tạo, song vẫn một mực: Lỗi là lỗi chung chứ đâu phải lỗi mình em!
Và họ cũng có cái lý của mình. Ông Tạ Xuân Tề, Hiệu trưởng Trường ĐH Công
nghiệp TPHCM trăn trở: “Nói ra thì thật buồn vì hầu như tất tật doanh
nghiệp ở nước ta không có thói quen đặt hàng hay hỗ trợ công tác đào tạo.
Họ chỉ biết nhận các “sản phẩm” có sẵn. Kể cả các doanh nghiệp nước ngoài
khi vào VN cũng bị lây nhiễm thói quen này”.
Ông Tề “buồn” cũng đúng vì trường ông thuộc diện trường
“khó” khi lãnh vực đào tạo đòi hỏi chi phí trang thiết bị giảng dạy rất
tốn kém: Chỉ nội mấy cái máy như máy CNC, máy đo 3 chiều… đã có giá tới
2-3 tỷ đồng. “Khó” nữa là suất đầu tư cho một sinh viên khối ngành này
lên tới 10 – 15 triệu đồng/năm, nhưng Bộ Công nghiệp chỉ “rót” cho có
7% kinh phí hoạt động, còn lại 93% số tiền trường phải tự lo. Giá như
mà trường ông thuộc diện quản lý của Bộ GD-ĐT thì ông đã “chắc suất” được
nhà nước hỗ trợ mỗi năm 60%-90% kinh phí hoạt động… Và người ta bực tức
cũng phải, khi nhà tuyển dụng chỉ có việc ngồi vào “mâm cỗ” để đánh chén
các “món ăn” đã được chuẩn bị sẵn.
Nhưng liệu các “món ăn” này có làm “khoái khẩu” người
sử dụng? Câu hỏi này khó có câu trả lời trọn vẹn. Lấy ngành CNTT làm ví
dụ: Các công ty phần mềm hiện đang tuyển người không phải theo đợt nữa
mà theo ngày, bởi theo dự báo trong những năm sắp tới ngành CNTT cần hơn
150.000 chuyên viên công nghệ mạng. Kiếm đâu ra đủ số lượng chứ chưa nói
đến chất lượng? Ông Cao Đăng Tân, Phó Giám đốc Trung tâm Tin học ĐH Khoa
học Tự nhiên cho rằng chương trình đào tạo đại học rộng, không thể đi
sâu vào chi tiết của một môi trường cụ thể, cho nên phải chọn giải pháp
tự học thêm hoặc bồi dưỡng qua các trung tâm tin học để tiết kiệm thời
gian, đỡ tốn công sức và chi phí.
Ông giải thích: “Trên lý thuyết, sinh viên ngành CNTT
ra trường có thể làm việc ở mọi cơ quan, mọi môi trường. Nhưng thực tế,
thời gian đào tạo đã bị mất phân nửa cho những môn học không liên quan
đến chuyên ngành nên sinh viên không được đào tạo sâu, chỉ được học những
kiến thức nền tảng. Do thời gian đào tạo ít nên phải chia ra những đơn
vị lập trình nhỏ, dẫn đến số môn học và khối lượng bài tập tăng lên. Mặt
khác, sinh viên VN yếu ngoại ngữ nên không đọc được tài liệu gốc, thầy
dạy sao thì trò biết vậy”. Kể lại chuyện một giám đốc doanh nghiệp có
tên tuổi than thở: “Sao tôi tuyển sinh viên hàng “top” mà các em không
làm được việc?”, ông Tân trầm ngâm: “Họ đâu có hiểu phía sau tấm bằng
tốt nghiệp “xịn” là những con người không đủ thời gian đào tạo chuyên
sâu. Thay vì lập trình viên thì họ lại tuyển chuyên viên mạng. Khổ cho
nhà tuyển dụng đã đành mà cũng khổ cho sinh viên bị đặt… “nhầm chỗ”.
Để “cung” gặp “cầu” còn nhiều chuyện gian truân. Nhưng
đâu đó đã “lóe” tia sáng hy vọng như “xã hội hóa” kiểu FPT, khi mà doanh
nghiệp tự bỏ tiền lập trường để đào tạo sản phẩm cho riêng mình. Và có
thể hy vọng vào chất lượng đào tạo vì ít nhất là nó khác với kiểu đào
tạo cứ đào tạo, còn sử dụng được không thì không cần biết, hiện đang rất
phổ biến ở nhiều trường ĐH hiện nay.
Nhóm PV khoa giáo
(theo báo Sài Gòn Giải Phóng) |