Nhớ lại những ngày khó quên ở phòng Toán Học Tính Toán  
 

(Post 19/05/2007) Bài viết sau đây của GS.TS Nguyễn Lãm gởi Hội Tin Học TP.HCM nhân dịp Viện Công nghệ Thông Tin kỷ niệm 30 năm thành lập (27/12/1976 - 27/12/2006). Tiền thân của Viện là Phòng Toán Học Tính Toán thuộc Ủy Ban Khoa Học Kỹ Thuật Nhà Nước mà GS.TS Nguyễn Lãm là người phụ trách cho đến năm 1972. GS.TS Nguyễn Lãm là một trong những cán bộ lão thành trong ngành CNTT, hiện nay GS là Ủy viên Ban Chấp Hành Hội Tin Học TP.HCM và là Giám đốc Trung tâm Tin Học Đại Học Lương Thế Vinh (TP. Nam Định). Xin trân trọng giới thiệu với các Anh Chị Hội viên bài viết của GS Nguyễn Lãm về một phần giai đoạn lịch sử thời kỳ đầu của ngành máy tính của đất nước ở phía Bắc.

GS.TS Nguyễn Lãm
(Hình: TGVT - PC World VN)

Tôi gọi điện thoại nói với bác Hồ Thuần là nhất định Bác phải giới thiệu bài thơ “Buổi ban đầu…” của bác trong dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Viện Công Nghệ Thông Tin chứ không thể chỉ để nó nằm lặng lẽ ở Tạp chí Tin Học Ngân Hàng trong số Xuân Kỷ Mão năm 1999 mà ít người biết đến. Bác Thuần bảo là thế nào bác cũng viết cái gì đó về “buổi ban đầu…” ấy để cho các bạn trẻ thấy cái không khí đầm ấm,hăng say hồi đó. Thế là tôi yên tâm không viết những gì diễn ra trong những ngày đầu tiên lắp đặt máy Minsk-22 nữa, mà viết vài nét về một số khía cạnh khác xung quanh chiếc máy tính điện tử đầu tiên này ở nước ta.

Câu chuyện đầu

Sau khi máy tính Minsk-22 được lắp đặt xong, anh Thành (Nguyễn Chí Thành) viết chương trình in ảnh Bác Hồ trên máy in khổ rộng và các đoàn đến tham quan đều được tặng bức ảnh đó. Máy tính vẽ được ảnh Bác Hồ quả là một điều kỳ diệu, khó hình dung nổi đối với nhiều người lúc bấy giờ! Miền Bắc lúc ấy chỉ mới có một máy tính điện tử và nó lại làm được những điều kỳ diệu như vậy, nên rất nhiều cơ quan, các trường học đến tham quan. Các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước cũng đến. Riêng Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì còn có buổi tiếp xúc với một số cán bộ trong đơn vị.Thủ tướng còn mời cơm thân mật ở Phủ Chủ tịch và chiêu đãi toàn đơn vị một buổi xem kịch ở Nhà hát lớn. Máy Minsk -22 được chuẩn bị bảo trì tốt và chuẩn bị để khai thác tốt, nên không lâu sau khi chuyên gia Liên Xô lắp đặt xong, đã tổ chức được cho các đơn vị khai thác tính toán và học tập. Bộ phận kỹ thuật do anh Nguyễn Hoàng phụ trách cùng các anh: Vũ Hồng Sơn, Bạch Hưng Khang, Trần Văn Tiểu, Lê Minh Chương, Đậu Quang Lâm, Lê Mạnh, Lê Minh Thanh…(bộ phận điện tử), anh Đôn, anh Hạ, Anh Tùng… (bộ phận cơ khí) .Ngoài ra, còn có bộ phận đục lỗ số liệu gồm nhiều chị em, có thể kể ra đây vài người: cô Thuý (về sau thành vợ anh Kỷ), cô Nga (rồi thành vợ anh Phố), cô Dung (thành vợ anh Quán), cô Quỳnh Giao (con của Bác Tạ Quang Bửu)…Hai anh bộ đội xuất ngũ làm công tác vật tư và hành chính là anh Hồng và anh Nghinh. Anh Nguyễn Liệu thì phụ trách toàn bộ công tác xây dựng, đảm bảo hậu cần. Chỉ sau một thời gian, nhu cầu tính toán của các nơi đòi hỏi phải tổ chức cho máy làm việc không phải chỉ là một ca (8 giờ) mà phải 2 ca, rồi 3 ca. Ai muốn tính toán phải đăng ký trước hàng tuần.

Nhắc đến việc khai thác Minsk-22 không thể nào quên các nhóm cán bộ nghiên cứu của các Viện, Trường, Bộ, ngành mà tên của họ gắn bó thân thiết với Minsk-22 như Trần Bình, Lại Huy Phương, Nguyễn Tri Niên, Nguyễn Đức Hiếu, Hoàng Kiếm, Nguyễn Bá Hào, Trịnh Văn Thư, Mai Anh, Bùi Khương…

Sau khi mấy nhịp cầu Long Biên bị bom địch đánh sập, một nhóm cán bộ Trường Đại học Xây dựng do anh Trần Bình chủ trì tính toán phương án sửa cầu và cầu đã được sửa chữa thành công theo phương án ấy. Nhóm anh Trần Bình, anh Mai Anh, anh Bùi Khương còn giải nhiều bài toán trong xây dựng như thiết kế cầu, đường, nhà cửa, cảng… Nhóm anh Trịnh Văn Thư với bài toán dự báo thời tiết ngắn hạn, giải hệ phương trình khí nhiệt động học đầy đủ bằng phương pháp hệ thức tích phân; giải các bài toán tính toán dự báo thuỷ triều; phân tích đánh giá quan hệ giữa phân bố mưa với các điều kiện hoàn lưu khí quyển; tính hàm phân bố gió bão… Về sau, dự báo thời tiết tiếp tục được xử lý trên máy tính Minsk-32 của quân đội và đạt kết quả ngày càng tốt hơn, được Ban phòng chống bão lũ trung ương do tướng Phùng Thế Tài làm trưởng ban quyết định : thông báo về dự báo bão lũ chỉ phát ra rộng rãi khi đã được xử lý trên máy tính. Một nhóm khác giải bài toán dự báo lũ bằng phương pháp tương quan nhiều chiều; dự báo lũ bằng phương pháp sai phân giải hệ phương trình Saint Venant; lập mô hình dự báo mực nước trong trường hợp có bão…

Cán bộ nghiên cứu ở lĩnh vực này còn nghiên cứu xử lý trên Minsk-22 nhiều vấn đề khác như tính sóng ở vịnh Bắc Bộ, tính toán hải lưu, tính nhiệt độ nước biển…Nhóm của anh Nguyễn Đức Hiếu thì giải bài toán của cục Tình báo, nhưng không ai biết chính xác là bài toán gì, chỉ phỏng đoán chắc là bài toán giải mã nhưng không một ai “dám “tìm hiểu sâu hơn. Đối với nhóm các anh ở Bộ tư lệnh Pháo binh thì Minsk-22 là cứu cánh giúp cho các anh giải quyết nhanh chóng hàng loạt bảng bắn của các loại pháo mà chiến trường đòi hỏi cấp bách. Những tính toán này về sau cũng được hoàn thiện hơn trên máy tính Minsk-32 của quân đội. Bộ tư lệnh Công binh thì có nhóm anh Nguyễn Tiến Cường và anh Nguyễn Văn Oanh ở Viện Thiết kế Công Binh tính toán thiết kế những công trình công binh.

Có một điều thật khó hình dung là một máy tính với tốc độ chỉ 6000 phép tính /giây và bộ nhớ chỉ vẻn vẹn 32K mà lại giải các bài toán quy hoạch! Thâm nhập vào thực tiễn trong nhiều lĩnh vực hoạt động của kinh tế- xã hội lúc bấy giờ, các nhà toán học phân tích, tìm mô hình giải quyết, dẫn đến các bài toán quy hoạch và đã có một số bài toán cụ thể được tính trên Minsk-22 như quy hoạch điện miền Bắc, cân đối than, tính đường ống nước Hà Nội, phân phối các phương tiện vận tải… Những bài toán hình thành trong lĩnh vực này có thể là tuyến tính và cũng có cả những bài toán phi tuyến.Việc đánh giá kết quả tính toán quy hoạch có tác dụng như thế nào cho thực tiễn lúc ấy thì chưa nói, ở đây chỉ muốn nói đến khía cạnh khai thác máy tính để giải quyết vấn đề. Làm được điều này là nhờ có một lực lượng làm toán quy hoạch khá mạnh ở nước ta lúc bấy giờ.

Bài toán thống kê thì có nhiều như bài toán điều tra sức khoẻ học sinh, xác định hệ số hô hấp, phân tích quặng,tính toán điều tra quy hoạch rừng, xác định chỉ tiêu than cho các đầu máy xe lửa (đoạn đầu máy Hà nội ), chỉnh lý số liệu địa chất cho thiết kế xây dựng, phân tích khách quan trường khí tượng ban đầu, quản lý cán bộ khoa học kỹ thuật…Nội dung xử lý của loại bài toán này rất phong phú và thường đưa đến việc tính giá trị trung bình, tính tần xuất, tính độ lệch chuẩn, xác định các hàm tương quan… Muốn sử dụng máy tính điện tử để phân tích số liệu một cách thuận lợi, cần tiến hành nghiên cứu cải tiến nhiều khâu trong việc thu thập số liệu từ nội dung các chỉ tiêu điều tra đến cách ghi chép, cách lưu trữ, cách đục lỗ số liệu, kiểm tra và cập nhật số liệu. Một số cơ quan đã có những cải tiến có giá trị trong việc này như Cục Điều tra Qui hoạch Rừng-Tổng cục Lâm nghiệp. Có một người bám máy, ngày đêm với hàng đống số liệu điều tra rừng, miệt mài phân tích, xử lý, gây cho tôi nhiều ấn tượng đẹp là anh Lại Huy Phương. Anh là cán bộ nghiên cứu của Cục Điều tra Quy hoạch Rừng. ( Bây giờ anh là Giám đốc Trung tâm Tư vấn Thông tin Lâm nghiệp) .Thật không ngờ, một tài liệu về tài nguyên rừng những năm gần đây cho biết nước ta có chỉ tiêu rừng bình quân đầu người thuộc loại thấp nhất thế giới, chỉ đạt 0,14ha/người so với chỉ tiêu trung bình của thế giới là 0,97ha/người.Niềm tự hào xưa nay “rừng vàng biển bạc” đâu còn nữa! Và chính nhóm của anh Phương ngay từ thuở ban đầu Minsk-22 ấy đã điều tra, phân tích, xử lý để về sau này dần dần rõ ra điều đó. Minsk-22 cùng với các máy cơ điện như Cellatron, Robotron xử lý số liệu điều tra rừng. Đó là một việc làm khá mới mẻ. Những bài toán khoa học kỹ thuật thì đã quen nhưng những bài toán kinh tế thì mới bắt đầu. Thế mà các anh ấy đã làm được nhiều việc như: xử lý số liệu đo đếm rừng phục vụ thống kê tài nguyên của 70 lâm trường trong các năm 1968-1975, xử lý số liệu đo đếm rừng vùng nguyên liệu cho Nhà máy giấy Bãi Bằng (1968-1972).Cũng từ năm 1968, bắt đầu với máy Minsk-22 đã xử lý số liệu giải tích đo cây rừng để lập biểu thể tích cây gỗ, trọng lượng tre nứa và biểu tăng trưởng rừng trên toàn quốc. Công trình này còn được áp dụng hiệu quả cho dự án VIE/76/014 do Liên hợp quốc tài trợ (1979-1982). Quy hoạch rừng quốc gia Cúc Phương cũng bắt đầu trên máy Minsk-22. Nhờ đã làm quen với xử lý số liệu trên máy tính từ thuở ban đầu ấy, ngành lâm nghiệp từ năm 1986 đã bắt tay vào nghiên cứu áp dụng công nghệ GIS và xây dựng thành công chương trình hệ thống xử lý thông tin bản đồ CAMAPS, một ứng dụng GIS đầu tiên có hiệu quả ở nước ta. Rồi với thế hệ máy tính mới,với các máy chuyên dụng cho lâm nghiệp ,trạm thu ảnh vệ tinh NOAA, ngành lâm nghiệp đã có những bước phát triển ứng dụng cntt đáng kể. Nhưng rồi những gì đã bắt đầu và tiếp tục một số năm sau đó lại phải chững lại do nhiều nguyên nhân!

Ngành địa chất cũng có nhiều bài toán giải trên máy Minsk-22, chủ yếu là địa vật lý thăm dò. Một trong những nhiệm vụ của khoa học địa chất là nghiên cứu các quy luật tạo thành và phân bố các loại mỏ khoáng sản có ích trong lòng đất. Ngoài ra còn có những vấn đề khác như nghiên cứu địa chất thuỷ văn và địa chất công trình…Các phương pháp trong địa chất được sử dụng như thăm dò từ tính , thăm dò trọng lực, thăm dò điện, thăm dò địa chấn, thăm dò phóng xạ…được xử lý trên máy tính. Nhiệm vụ chung của các phương pháp vật lý là nghiên cứu sự phân bố của các trường vật lý tự nhiên hoặc nhân tạo trong lớp vỏ trái đất. Nhiệm vụ ấy được thực hiện bằng cách đo đạc thực địa. Các tài liệu thu được trong công tác thăm dò địa vất lý chủ yếu là các tài liệu đo đạc ngoài trời. Chúng bị nhiều ảnh hưởng ngẫu nhiên và không ngẫu nhiên làm sai lệch. Cần chỉnh lý và phân loại tài liệu, gồm các bước:

  • Hiệu chỉnh các ảnh hưởng của địa hình, của điều kiện đo đạc.
  • Loại nhiễu ngẫu nhiên
  • Xét tính biến đổi tài liệu.

Các bước này đều được thực hiện trên máy tính điện tử. Việc nghiên cứu các mô hình địa vật lý cũng được đặt ra. Máy Minsk-22 được sử dụng để hiệu chỉnh, giải thích các số liệu địa vật lý như trọng lực, địa chấn, từ; giải các bài toán thuận với điều kiện vật lý địa chất cho trước cụ thể ở nước ta; nghiên cứu việc tự động hoá phân tích số liệu gồm nhiều khâu từ phân tích quặng đến ước lượng trữ lượng. Lúc đó đã thí nghiệm thành công việc dùng Minsk-22 để phân tích định lượng các mẫu quặng.

Các trường đại học, đặc biệt là Đại học Bách khoa và Đại học Tổng hợp thường xuyên gửi sinh viên đến thực tập. Khoa Máy tính của Đại học Bách khoa ngày càng thu hút nhiều sinh viên. Đại học Tổng hợp thì phát triển nhanh ngành phương pháp tính.

Cán bộ khoa học của Phòng hầu hết đều tham gia giảng dạy và hướng dẫn sinh viên làm tốt nghiệp ở các trường đại học. Bác Hồ Thuần thì dạy ở ĐH Tổng hợp; bác Lê Thiện Phố thì ĐH Bách khoa, Đại học An ninh, dạy các lớp cán bộ kỹ thuật cho các nơi như Viện Thiết kế Giao thông, cán bộ Ủy ban Sông Hồng, Nha khí tượng; bác Trịnh Quang Khuynh thì dạy ở ĐH Tổng hợp, ĐH Thuỷ lợi; Nguyễn Lãm thì đại học An ninh…

Máy tính Minsk-22 làm việc tốt, phục vụ tính toán cho nhiều ngành, cho đào tạo cán bộ và cũng có thể nói phục vụ được phần nào đó cho chiến đấu, nên Nhà nước có quyết định cho các ngành mua thêm 2 máy Minsk-32 (năng lực lớn gấp 2 lần so với Minsk-22), một cho quốc phòng và một cho Tổng cục thống kê và một máy tính ODRA của Ba Lan cho UBKHKTNN. Một cách khách quan mà nhận xét thì ở thời điểm đó có một chuyển biến sôi động về ứng dụng máy tính điện tử ở nước ta. Đã gần 40 năm trôi qua, những ký ức còn lại phai nhạt dần, lại không có ai tổ chức lưu lại những kỷ vật hồi đó, không ai ghi chép, không có lấy một cái ảnh để kỷ niệm. Thật đáng tiếc!

Cùng với bảo trì bảo dưỡng, tổ chức khai thác Minsk-22 phục vụ cho tính toán của nhiều ngành, phục vụ cho đào tạo, Phòng Toán Học Tính Toán còn tổ chức nghiên cứu khoa học theo các hướng:

  • Cibernetic do GS Phan Đình Diệu đứng đầu.
  • Toán học rời rạc mà chủ yếu là phương pháp tính và lập chương trình thì có nhiều người: Hồ Thuần, Lê Thiện Phố, Trinh Quang Khuynh, Nguyễn Lãm, PhạmVăn Ất, Trần Hành, Trần Văn Nho, Bùi Thị Hoàng, Nguyễn Chí Thành, Nguyễn Văn Kỷ, Nguyễn Đức Tích, Ngô Thu Nguyệt…

Phòng có một nội san lấy tên là Toán Học Tính Toán và Kỹ Thuật Máy Tính, bác Lê Khắc (Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước - UBKHKTNN, người trực tiếp theo dõi, chỉ đạo phòng Toán học tính toán lúc bấy giờ) làm chủ nhiệm. Ban biên tập gồm: Trần Bình (Đại học Xây dựng), Phan Đình Diệu (UBKHKTNN), Tạ Văn Đĩnh (Đại học Bách khoa), Phan Văn Hạp (Đại học Tổng hợp), Bạch Hưng Khang (UBKHKTNN), Bùi Khương( Viện Kỹ thuật Bộ Giao thông), Nguyễn Lãm, Hồ Thuần, Lê Thiện Phố, Trần Văn Nho, Trần Văn Tiểu (UBKHKTNN), Trịnh Văn Thư (Nha Khí tượng), Nguyễn Công Thuý (Đại học Tổng hợp).

Ban Thường trực gồm: Phan Đình Diệu, Nguyễn Lãm, Trần Văn Nho, Lê Thiện Phố.

Máy Minsk-22 với bộ nhớ trong 32Kbytes ,tốc độ tính toán 6000phéptính/giây

Xin trình bày nội dung của một số báo để hình dung các vấn đề nghiên cứu được quan tâm lúc đó. Chẳng hạn, trong số 4, tập 1(tháng 10,11,12 năm 1968) có các bài :

Phần 1: Phương pháp tính

  • Áp dụng phương pháp Galorchkine giải một bài toán về sự ổn định của hệ thống dây mềm trong cơ học. - Trần Hành.
  • Một vài quy tắc đơn giản một bước để giải phương trình dạng hy-pec-bôn. - Ngô Thu Nguyệt.

Phần 2: Lập chương trình

  • Vấn đề kiểm tra trong khi giải bài toán bằng máy tính điện tử - Nguyễn Bá Hào
  • Các khái niệm cơ sở về hệ lệnh và lập chương trình cho máy tính Minsk-22 - Nguyễn Đức Tích

Phần 3: Cibernetic

  • Lôgich toán và tự động hoá các quá trình sáng tạo toán học - Phan Đình Diệu
  • Một vài kết quả về thu gọn các ôtomat xác xuất - Đặng Hữu Đạo
  • Giải bài toán vận tải bằng ngôn ngữ Algol - Muller Merbacl H.
  • Nhận dạng các quá trình động cắt nhau bằng máy tính điện tử - Bạch Hưng Khang

Cùng với việc ra nội san hàng quý, một số anh có viết và dịch một số sách. Cuốn “Lý thuyết lập chương trình cho máy tính điện tử” của Hồ Thuần và Nguyễn Lãm do Nhà xuất bản Đại học và Trung học Chuyên nghiệp xuất bản cũng có thể xem như một tài liệu đầu tiên về máy tính cho sinh viên. Cuốn “Lập chương trình cho máy tính điện tử Minsk-22” và “Cơ sở ngôn ngữ thuật toán Algol-60”của M.I. Agheep,V.M. Xavincop do Nguyễn Văn Kỷ, Nguyễn Chí Thành và Nguyễn Đức Tích dịch và Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật xuất bản cũng có tác dụng tốt cho người sử dụng, khai thác máy.

Những ngày đó, khi máy bay địch có thể bắn phá bất kỳ lúc nào, nhưng những sinh hoạt khoa học như xemina, chuyên đề vẫn diễn ra thường xuyên trong một không khí hoạt động nghiên cứu khoa học thật sôi nổi. Cán bộ của Phòng cũng tham gia nghiên cứu giải nhiều bài toán thực tế như giải bài toán tính áp xuất động cho Viện Kỹ thuật- BQP, (bài toán này là cơ sở lý thuyết cho việc chế tạo thành công vũ khí thuỷ lôi APS đánh tàu biển, thứ vũ khí chủ yếu của đặc công nước ), giải bài toán tính đường dây điện cho Viện Thiết kế Mỏ- Bộ Điện than, ứng dụng MTĐT trong chẩn đoán y học, xây dựng thuật toán nhận dạng đô thị và áp dụng vào việc giải bài toán mạng đường ống nước…

Về nghiên cứu khoa học thì lĩnh vực phương pháp tính thời đó được quan tâm hơn cả. Một số anh có một số kết quả đăng ở tập san Toán học (Ủy ban khoa học và kỹ thuật nhà nước- nước Việt Nam dân chủ cộng hoà), ở tạp chí Toán học tính toán và vật lý toán (Viện hàn lâm khoa học Liên Xô) như “Phương pháp tìm giá trị riêng lớn nhất và vectơ riêng tương ứng của ma trận dương”, “Đưa ma trận không âm không thu gọn được về ma trận ngẫu nhiên suy rộng” của Phạm Văn Ất, “Một số tiêu chuẩn đủ cho sự hội tụ của các phương lặp Jacobi và Gauss-Seidel”,những kết quả về lớp ma trận không thu gọn được của Hồ Thuần, “Một vài nhận xét về bài báo của Loizou G. “ của Hồ Thuần và Phạm Văn Ất…

Cùng với việc khai thác máy tính Minsk-22 phục vụ cho nhu cầu tính toán của các nơi và hoạt động nghiên cứu khoa học, anh em còn quan tâm đến việc làm chiến lược phát triển ngành máy tính ở nước ta.Chúng tôi tìm hiểu những mô hình xây dựng trung tâm tính toán của các nước và suy nghĩ về xây dựng các trung tâm tính toán ở nước ta. Anh Trần Lưu Chương (tuy anh ở phòng Cơ học nhưng rất gắn bó với phòng Toán học tính toán.) phác thảo một chiến lược phát triển máy tính điện tử ở nước ta đầu tiên, sau đó anh Diệu và tôi tham gia ý kiến, sửa đổi. Anh Diệu chịu trách nhiệm đem báo cáo cấp trên.Tháng 9/1976 UBKHKTNN thành lập Cục Máy tính điện tử và giao cho anh Trần Lưu Chương phụ trách. Từ đó rất nhiều chủ trương về máy tính điện tử ra đời: UBKHKTNN nhập trên 20 máy PC-IBM 16 bit ngay khi chúng mới ra đời (1981); chuẩn bị cho chính phủ ra nghị quyết 173-CP năm 1975 về tăng cường ứng dụng toán học và máy tính điện tử trong quản lý nhà nước; nghị quyết 245-CP năm 1976 về tăng cường quản lý và sử dụng mtđt trong cả nước; nghị quyết 37-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường phục vụ thông tin cho lãnh đạo và quản lý,góp phần nâng cao chất lượng ra nghị quyết của các cấp. Thế rồi, mãi hơn 20 năm sau từ khi có những phác thảo đầu tiên về một chiến lược, nước ta mới có một quyết định có tính chiến lược thật sự phát triển ngành này ở nước ta chính thức ra đời. Đó là nghị quyết 49/CP năm 1993 của Chính phủ.

Câu chuyện tiếp theo

Có một nhân vật nước ngoài mà nhiều người trong Viện CNTT hiện nay và phòng Toán Học Tính Toán trước đây có sự gắn bó, có tình cảm đặc biệt, từ Nguyễn Lãm, Bạch Hưng Khang, Phan Đình Diệu đến Nguyễn Xuân Huy, Hồ Thuần, Trần Thành Trai, …Đó là Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, Giám đốc Trung Tâm Tính Toán Viện Hàn lâm Khoa học Liên xô Anatoli Alexeevich Dorotnhitxun. Trung tâm này, khoảng năm 1959, Bác Hồ đã từng ghé thăm. Hồi đó, Trung tâm đang tính toán đường bay cho các con tàu vũ trụ và rất vinh dự được đón một nguyên thủ quốc gia đến thăm mà từ trước đến lúc đó chưa từng có. Trung Tâm Tính Toán Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô là nơi đào tạo nhiều cán bộ cho Việt Nam.

Anatoli Alexeevich Dorotnhitxun đã sang nước ta hàng chục lần. Lần đầu tiên vào năm 1971, ông là Trưởng đoàn của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô sang ký kết hợp tác khoa học giữa Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô và Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước Việt Nam. Tôi còn nhớ lần này Viện sĩ đến Việt Nam vào khoảng cuối tháng 11 đầu tháng 12 . Vào dịp ngày sinh nhật của Viện sĩ (2/12/1910), chúng tôi tổ chức một buổi gặp mặt nhẹ nhàng và mời GS Lê Văn Thiêm chủ trì chúc mừng sinh nhật Viện sĩ. Tuy rất đơn giản, chỉ một ít rượu, với nem rán, nhưng rất đầm ấm, thân mật. Trong ký kết hợp tác lần đó có nội dung đào tạo cán bộ khoa học, dĩ nhiên là có ngành máy tính. Những năm sau, nhiều thực tập sinh, nghiên cứu sinh đã sang làm việc ở Trung Tâm Tính Toán của Ông và ở những cơ sở khác thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên xô. Sang Việt Nam lần đầu tiên này, qua thời gian làm việc với Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước, với phòng Toán Học Tính Toán và một số nơi khác, Viện sĩ đã có những ấn tượng sâu sắc, tình cảm trước đây đã gắn bó bây giờ càng gắn bó hơn. Năm 1974, lần thứ 2 Viện sĩ lại sang Việt Nam để ký hợp tác khoa học (như năm 1971). Lần thứ ba,vào năm 1977, Viện sĩ lại dẫn đầu đoàn của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô sang ký kết. Lần này, Viện sĩ có mặt ở Hà Nội và ở Thành phố Hồ Chí Minh. Các năm 1979, 1983,1984,1985,1987 ,1990 Viện sĩ đều có mặt ở Việt Nam. Lần sau cùng, khi tôi đang làm việc ở Tổng cục kỹ thuật- Bộ Quốc phòng, đã tổ chức một buổi trao đổi giữa Viện sĩ với Trung tướng Lê Văn Tri - Tổng cục trưởng Tổng cục Kỹ thuật, BQP.

Tôi gặp may, trong thời gian tôi thực tập (1962-1964) tại Trung Tâm Tính Toán-Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô dưới sự hướng dẫn của một cán bộ thuộc Trung tâm, nhưng lại được giải một bài toán chuyển động chất lỏng của Viện sĩ. Bài toán giải có kết quả nên hết thời gian thực tập, tôi được Viện sĩ nhận làm nghiên cứu sinh. Tuy công việc của Ông bận rộn ở nhiều nơi, nhưng mỗi lần tôi xin được gặp, hầu như chưa khi nào Ông từ chối. Ông tiếp xúc thân mật, gần gũi. Nhớ lại những năm, tháng đó, cả một thời gian dài, đêm nào cũng làm máy đến tận 1, 2 giờ sáng trên máy Strela mà giật cả mình!

Anatoli Alexeevich Dorotnhitxun từng làm việc, có thể nói là khá thân thiết với Giáo sư Tạ Quang Bửu, GS Lê Văn Thiêm. Qua những lúc thầy trò tâm sự, tôi cảm nhận sự kính trọng của Ông đối với các vị tiền bối này. Ông cũng biết được GS Lê Văn Thiêm là một nhà toán học ở Pháp, đã về nước theo tiếng gọi của Bác Hồ vào khoảng năm 50 của thế kỷ trước và lặn lội dọc đường rừng Trường sơn từ miền Nam ra miền Bắc. Còn với GS Tạ Quang Bửu thì Viện sĩ nhiều lần trao đổi về phát triển ngành máy tính nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Nói đến đây tôi nghẹn ngào nhớ lại Bác Tạ Quang Bửu, người có công đầu tiên đặt những nền tảng cho ngành công nghệ thông tin nước ta, người say mê nghiên cứu những hướng phát triển mới của khoa học, người xông xáo mạnh dạn giải quyết những khó khăn,cản trở trong quá trình xây dựng và cũng chính bác Bửu có tác động lớn trong việc đặt máy Minsk-22 ở tầng 1 toà nhà 39 Trần Hưng Đạo. Trong công việc khi gặp khó khăn gì là tôi tìm gặp Bác Bửu. Bác là người quan tâm nhiều về những vấn đề lý thuyết toán học hiện đại. Tôi còn nhớ, một lần nhà toán học Mỹ Chomski sang nước ta đọc một chuyên đề về ngôn ngữ toán. Người nghe ngồi gần kín hội Trường Đại học Bách khoa. Anh Đặng Quang Thiên, phiên dịch viên tiếng Anh của Ủy ban Khoa học Kỹ thuật dịch. Dịch được một lúc nhưng gặp phải vấn đề toán học khó quá, Bác Bửu phải dịch thay. Thế là Bác dịch hết cả chuyên đề suốt cả ngày hôm đó. Ngành công nghệ thông tin nước ta đời đời ghi nhớ công ơn của bác Bửu.

Năm 1994, Viện sĩ Anatoli Alexeevich Dorotnhitxun đã qua đời, để lại một niềm thương nhớ vô hạn cho chúng tôi-những người đã từng được gần gũi, học tập, làm việc với Viện sĩ, những người lớn tuổi đã trải qua một thời trai trẻ sôi nổi ở phòng Toán Học Tính Toán, tiền thân của Viện Công Nghệ Thông Tin ngày nay.

Ngày 11 Tháng 12 Năm 2006
GS.TS Nguyễn Lãm

(theo Hội Tin học TpHCM)


 
 

 
     
 
Văn hóa - Giáo dục khác:


Bộ Khoa học và Công nghệ - Nơi đặt nền tảng cho sự phát triển Công nghệ Thông tin Việt namHướng nghiệp: Mạnh ai… nấy làm!
Tốt nghiệp để... thất nghiệpTôi đã đi xin việc như thế nào? - Phần sau
Tôi đã đi xin việc như thế nào? - Phần đầuĐào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu thị trường - Bài cuối: Không chạy theo “thị hiếu xã hội”
  Xem tiếp    
 
Lịch khai giảng của hệ thống
 
Ngày
Giờ
T.Tâm
TP Hồ Chí Minh
Hà Nội
 
   
New ADSE - Nhấn vào để xem chi tiết
Mừng Sinh Nhật Lần Thứ 20 FPT-APTECH
Nhấn vào để xem chi tiết
Bảng Vàng Thành Tích Sinh Viên FPT APTECH - Nhấn vào để xem chi tiết
Cập nhật công nghệ miễn phí cho tất cả cựu sinh viên APTECH toàn quốc
Tiết Thực Vì Cộng Đồng
Hội Thảo CNTT
Những khoảnh khắc không phai của Thầy Trò FPT-APTECH Ngày 20-11