(Post 07/05/2008) Chất lượng nguồn nhân lực
của VN hiện nay mới chỉ đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong
số 12 nước châu Á tham gia xếp hạng, theo đánh giá mới của Ngân hàng Thế
giới (WB). 1 nghiên cứu khác cho thấy lao động VN chỉ đạt 32/100 điểm.
Trong khi đó, những nền kinh tế có chất lượng lao động dưới 35 điểm đều
có nguy cơ mất sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Đó là những con
số được các đại biểu đưa ra tại hội thảo “Đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển Thủ đô” diễn ra mới đây.
Nhiều con
số gây "sốc" được các đại biểu đưa ra tại hội thảo.
Ảnh: Lan Hương |
|
Đồng tình với những nhận định này, PGS.TS Nguyễn Đại
Thành, Nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục Chuyên nghiệp (Bộ GD-ĐT) khẳng định
nguồn lao động của nước ta có năng suất lao động quá thấp, đứng thứ 77/125
nước và vùng lãnh thổ, sau cả Indonesia, Philippine và Thái Lan.
Ngay tại Thủ đô, có chưa tới 15% lực lượng lao động biết
tiếng Anh và sử dụng thành thạo máy vi tính, TS Nguyễn Minh Phong, Trưởng
phòng Nghiên cứu Kinh tế, Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế-xã hội Hà
Nội cho biết.
Theo bảng số liệu do PGS.TS Đặng Quốc Bảo cung cấp thì
tỉ lệ lao động không có chuyên môn ở Hà Nội hiện là 41,4%, Hải Phòng 64%,
Đà Nẵng 54,4%, TP.HCM 55% và Bà Rịa Vũng Tàu là 62,9%.
Ông Bảo cảnh báo với chất lượng lao động như vậy, chúng
ta có nguy cơ thua ngay trên chính sân nhà. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp
không “dám” sử dụng lao động VN cho những vị trí cần kiến thức và tay
nghề cao nên sẽ có lúc chúng ta phải nhập khẩu lao động chất lượng cao
từ nước ngoài vào.
Vụ trưởng Vụ Giáo dục Chuyên nghiệp (Bộ GD-ĐT) Hoàng
Ngọc Vinh cho rằng trước hết cần có chuẩn để so sánh chất lượng lao động
và để thực hiện được chuẩn phải giải quyết các vấn đề về cơ chế, tài chính,
quản lý...
Các tiêu chí đánh giá chất lượng lao động do WB đưa ra
bao gồm những ấn tượng chung về hệ thống giáo dục và đào tạo nhân lực;
mức độ sẵn có của lao động chất lượng cao; mức độ sẵn có của nhân lực
quản lý hành chính chất lượng cao; sự thành thạo tiếng Anh và sự thành
thạo về kỹ thuật và công nghệ tiên tiến.
Là đại diện duy nhất từ doanh nghiệp tham gia hội thảo,
ông Nguyễn Văn Tố, Trưởng ban Đào tạo, Chánh Văn phòng Tổng Công ty Vinaconex
cho rằng cần phải nhìn nhận lại quan niệm thông thường là lao động trình
độ cao tức là lao động được đào tạo ở trình độ cao. Những nghệ nhân ở
các làng nghề truyền thống rất thành thạo công việc của mình nên dù không
qua trường lớp đào tạo, họ vẫn là những lao động có trình độ rất cao.
Theo ông Tố, cần làm sáng tỏ vấn đề này, từ đó đưa ra
hướng đào tạo thích hợp.
Ông Tố cũng cho rằng lâu nay chúng ta nhầm lẫn giữa nhu
cầu xã hội và nhu cầu lao động. Nhu cầu xã hội là nhu cầu được đi học
của người dân, vì thế các trường luôn mở rộng, tuyển sinh nhiều hơn để
đáp ứng nhu cầu này. Và hàng năm, ước tính các trường ĐH, CĐ trên cả nước
cho “ra lò” gần 1 triệu lao động nhưng khu vực cần rất nhiều nhân công
như các khu công nghiệp, làng nghề, xuất khẩu lao động lại chỉ tận dụng
được lao động nông thôn nhàn rỗi chứ không phải 1 triệu lao động qua đào
tạo kia. Như vây, rõ ràng có sự vênh nhau giữa nhu cầu đi học của người
dân và nhu cầu nhân lực của xã hội.
Đa số đại biểu tham gia hội thảo đều bày tỏ rằng với
cơ chế tài chính và quản lý hiện nay, rất khó cho các trường trung cấp
chuyên nghiệp và dạy nghề nâng cao chất lượng đào tạo lao động. 1 trường
có tới 2 bộ quản lý (Bộ GD-ĐT và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội), lại
thêm bộ chủ quản “kèm cặp”. “Có 2, 3 ông bố thì con gái không lấy
chồng được là phải!” - Ông Nguyễn Văn Tố ví von.
Vụ trưởng Vụ Giáo dục Chuyên nghiệp Hoàng Ngọc Vinh cũng
đồng tình rằng, 1 trong các nguyên nhân dẫn tới chất lượng đào tạo lao
động còn yếu kém là do lạc hậu trong nhận thức và quản lý giáo dục, chưa
quan tâm đúng mức tới cung-cầu mà chỉ đào tạo theo quán tính. Bên cạnh
đó, việc thiếu cơ chế chế tài cũng dẫn đến buông lỏng chất lượng đào tạo
vì cho đến nay, ngoài Trường ĐH Á Châu thì chưa có 1 trường nào ở nước
ta phải buộc đóng cửa.
Các đại biểu thống nhất cần thành lập các cơ quan dự
báo nguồn nhân lực để đón đầu thị trường, đồng thời thay đổi cơ chế quản
lý đào tạo để thúc đẩy mạnh mẽ việc tăng chất lượng đào tạo nhân lực.
Lan Hương
(theo VietNamNet) |