(Post 15/05/2008) “Trong vòng 10 năm tới, VN
hoàn toàn có thể có trường lọt vào Top 200 trường ĐH hàng đầu thế giới.
Tuy chưa xây dựng được trường đẳng cấp quốc tế nhưng VN không thiếu SV
đẳng cấp quốc tế.” - Đó là nhận định của ông Thomas Vallely, Giám đốc
Chương trình VN của ĐH Harvard (Hoa Kỳ).
Thomas
Vallely: "VN cần có những chính sách đa dạng cho các loại
trường khác nhau trong "hệ sinh thái" giáo dục."
Ảnh: Lan Hương |
|
Phân loại “hệ sinh thái” ĐH để trao
quyền tự chủ
PV: Theo bảng xếp hạng mới nhất
của Webometrics, VN chỉ có 7 trường nằm trong Top 100 trường ĐH hàng đầu
Đông Nam Á. Các bảng xếp hạng Châu Á và thế giới thì hoàn toàn vắng bóng
các trường ĐH VN. Trong khi đó, theo chiến lược phát triển giáo dục đến
năm 2020, VN đặt mục tiêu có 1 trường nằm trong Top 100 và 1 số trường
nằm trong Top 500 của thế giới. Theo ông, mục tiêu này có thể thành hiện
thực được không?
Ông Thomas Vallely: Trước hết, tôi phải
nói rằng mục tiêu này hoàn toàn có thể thực hiện được, thậm chí còn có
thể thực hiện được trong khoảng thời gian ngắn hơn. Vấn đề là làm thế
nào để thiết lập một loạt chính sách tạo điều kiện cho trường ĐH đẳng
cấp quốc tế ở VN ra đời.
Tôi còn nhớ Nghị quyết 14 của Chính phủ VN ban hành tháng
11/2005 đã đưa ra những tiêu chuẩn cơ bản để VN xây dựng 1 trường ĐH đẳng
cấp quốc tế. Có thể hình dung Nghị quyết 14 như là một lộ trình chung.
Và bây giờ công việc mà VN phải làm là đưa Nghị quyết này vào các công
việc cụ thể.
Nghị quyết 14 ghi rõ rằng VN sẽ cần “hệ sinh thái” các
trường ĐH bao gồm nhiều loại hình ĐH khác nhau, cả trường ĐH nghiên cứu,
trường đẳng cấp quốc tế và cả những trường dạy nghề, trường chuyên ngành,
trường cấp vùng cung cấp nhân lực cho địa phương.
Chỉ có một môi trường như thế mới có thể đào tạo được
những người có đủ kiến thức và kỹ năng cũng như tạo ra những sáng tạo
mà VN cần trong tương lai.
Tôi cũng lưu ý rằng, nhiều khi dư luận tập trung nhiều
vào các trường ĐH tinh hoa nhưng thực chất nhu cầu của VN rộng hơn nhiều.
Và tôi tin rằng Bộ GD-ĐT VN hoàn toàn nhận thức được điều đó.
PV: Với 1 “hệ sinh thái” giáo dục
đa dạng như vậy, liệu có thể trao quyền tự chủ cho tất cả các trường không?
Ông Thomas Vallely: Trong hệ sinh thái
với những trường được phân định rõ ràng thì mỗi trường sẽ được trao quyền
tự chủ khác nhau tùy vào sứ mệnh.
VN đang thúc đẩy quá trình trao quyền tự chủ cho các
trường ĐH nhưng trước khi đẩy mạnh quá trình đó thì cần thiết phải phân
loại các trường.
Quyền tự chủ là yếu tố tối quan trọng đối với các trường
ĐH nghiên cứu, ĐH hàng đầu nhưng các trường dạy nghề, trường cấp vùng
không cần mức độ tự chủ cao như vậy. Khả năng quản lý của các trường này
vẫn còn hạn chế nên việc trao nhiều quyền tự chủ cho các trường đó chưa
chắc đã mang lại hiệu quả. Tôi xin nhấn mạnh rằng, cần có chính sách khác
nhau cho những loại trường khác nhau.
Với hệ thống giáo dục còn nhiều bất cập như hiện nay,
Chính phủ VN cần phải chuẩn bị kỹ cho quá trình nới lỏng các chính sách,
nếu không có thể sẽ không mang lại hiệu quả như mong muốn.
Trong quá trình nới lỏng quy định để tạo ra không gian
cho các trường thì phải tăng cường trách nhiệm giải trình của trường.
Đó là trách nhiệm trước Chính phủ, trước đội ngũ giảng viên, SV, và đặc
biệt là thị trường lao động nơi sẽ sử dụng sản phẩm đầu ra của trường.
Song hành với quá trình trao thêm quyền tự chủ cũng cần
tạo môi trường cạnh tranh giữa các trường. Đây có thể là một công cụ hữu
hiệu để tăng cường chất lượng của hệ thống giáo dục. Trong 20 năm trở
lại đây, VN đã sử dụng công cụ cạnh tranh rất thành công trong nhiều lĩnh
vực, mà Internet là một ví dụ điển hình..
Trong môi trường có thêm cạnh tranh thì các trường phải
chịu trách nhiệm nhiều hơn. Tất cả vì mục đích cao nhất là tăng cường
chất lượng.
Tuy nhiên, ở đây tôi cũng muốn nói thêm rằng việc nới
lỏng các chính sách, việc trao quyền tự chủ cho các trường đại học, việc
để cho các trường cạnh tranh với nhau hoàn toàn khác với việc thương mại
hoá giáo dục hay nói theo cách của Việt Nam là “xã hội hoá giáo dục” mà
nó được hiểu rằng có thể coi giáo dục như là một lĩnh vực kinh doanh vì
mục đích lợi nhuận.
Hiện đang có một quan niệm hết sức sai lầm rằng để có
thể có một hệ thống giáo dục tốt VN cần phải mở cửa kêu gọi nước ngoài
đầu tư vào các trường đại học. Trên thực tế, chưa có một hệ thống giáo
dục nào thành công mà nhà nước không đóng vai trò chính. Tôi lấy ví dụ
như trường Harvard, trường đại học được xem là giàu có nhất thế giới và
sinh viên học ở đây phải trả một mức học phí rất cao, nhưng ngay cả ở
mức như vậy họ cũng đang được chính phủ Hoa Kỳ trợ cấp (một cách gian
tiếp) một tỉ lệ phần trăm học phí đáng kể.
Kiểm định chất lượng phải đi kèm với chế tài phù
hợp. Ảnh: Lê Anh Dũng |
|
Kiểm định chất lượng “có răng”
PV: Bộ GD-ĐT vừa công bố 1 loạt
chính sách mới liên quan tới kiểm định chất lượng như phân bổ kinh phí
nghiên cứu, đào tạo dựa trên chất lượng, cho phép các trường qua kiểm
định chất lượng tự quyết định khung học phí. Theo ông, liệu đây có thể
là đòn bẩy để nâng cao chất lượng giáo dục ĐH ở VN?
Ông Thomas Vallely: Trước hết, tôi khẳng
định rằng kiểm định chất lượng là 1 công cụ rất quan trọng để Bộ GD-ĐT
điều tiết được quá trình nới lỏng và trao thêm quyền tự chủ cho các trường.
VN cần thiết xây dựng cơ chế kiểm định chất lượng mới có thể tiếp tục
cải cách hệ thống giáo dục ĐH.
Nhưng chúng ta phải nhớ rằng cơ chế kiểm định chất lượng
chỉ là một công cụ chứ không phải là loại thuốc có thể chữa bách bệnh.
Riêng kiểm định thôi thì không giải quyết được vấn đề chất lượng.
Cơ chế kiểm định chất lượng chỉ hiệu quả khi các trường
phải chịu trách nhiệm. Nói theo lối của người Mỹ là quá trình kiểm định
chất lượng “có răng”. Tức là kiểm định phải kèm việc xử lý chứ không chỉ
đưa ra rồi kiểm định xong mọi việc vẫn như cũ.
Giả sử trường hợp trường A có sứ mệnh là giảng dạy và
nghiên cứu khoa học nhưng đội ngũ giảng viên của trường này không xuất
bản nhiều bài nghiên cứu có giá trị. Nếu trong quá trình kiểm định chất
lượng thực thụ thì trường đó sẽ bị đánh giá thấp về hiệu quả và sẽ phải
chịu các chế tài.
Chẳng hạn ở Mỹ có trường ĐH qua kiểm định không đảm bảo
chất lượng thì hiệu trưởng phải từ chức hoặc nếu là trường công thì chính
quyền tiểu bang sẽ cắt giảm ngân sách hoặc có chế tài phù hợp.
VN không thiếu SV đẳng cấp quốc tế
PV: Cùng với ĐH đẳng cấp quốc tế,
VN cần cả những SV đẳng cấp quốc tế. Theo ông, làm thế nào để đào tạo
được SV đẳng cấp quốc tế trong điều kiện VN hiện nay?
Ông Thomas Vallely: VN không thiếu SV
đẳng cấp quốc tế. Tôi rất thích trò chuyện với các SV VN vì họ rất giỏi,
rất thông minh. Nói một cách công bằng, SV ở đâu cũng na ná như nhau thôi,
SVVN cũng giống như SV Mỹ thôi. SVVN không nên nghĩ rằng họ là “trường
hợp đặc biệt” so với SV các nước khác.
Xã hội VN là một xã hội hiếu học và đặt giá trị của giáo
dục rất thiêng liêng. Đó là một sức mạnh của giáo dục VN. Khi SVVN được
học trong những trường tốt, trong điều kiện thuận lợi luôn rất thành công.
Vì thế, cần tạo môi trường thuận lợi học tập thuận lợi
cho họ, trong đó phải có tự do học thuật, cởi mở về tư tưởng và rất lành
mạnh, mỗi người được đánh giá chính xác theo khả năng của mình.
Tôi đánh giá rất cao nỗ lực của Bộ GD-ĐT VN loại bỏ tiêu
cực trong giáo dục và khoa học: những hoạt động khoa học không mang lại
kết quả mà chỉ là nơi chia chác thứ này thứ khác, gian lận thi cử… Đó
là điều kiện tiên quyết để có môi trường cho SVVN tiếp tục phát triển
và trưởng thành.
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng, với thực trạng giáo dục
đại học nói riêng, giáo dục Việt Nam nói chung như hiện nay, việc đưa
ra các chính sách mới vừa để sửa chữa những bất cập hiện tại, vừa có thể
lường đón và giảm thiểu hết các tác dụng phụ không phải là điều dễ dàng.
Đây chính là một trong những khó khăn nhất đối với những người phải trực
tiếp làm cái công việc khó khăn này.
Do vậy, việc có nhiều ý kiến trái chiều đối với những
chính sách mới là điều dễ hiểu. Trong những trường hợp như vậy cần phải
quyết đoán và chấp nhận đương đầu. Những nhà cải cách thường thành công
nhờ tố chất này.
VN có nhiều nhà khoa học trẻ rất giỏi. Nhiều người đã
rất thành công trong nước và nước ngoài. Nhưng cũng không nên đề cao quá
nhiều những thành tựu cá nhân như thành tích trong kỳ thi Toán quốc tế
vì đó chỉ là các trường hợp cá biệt. Điều đáng quan tâm hơn cả là khả
năng đào tạo được nhiều người đáp ứng nhu cầu của các nhà tuyển dụng hay
nói một cách đơn giản là những người có thể làm việc được.
Tôi xin đưa ra một con số sẽ làm những ai quan tâm phải
suy nghĩ rất nhiều. Vừa qua khoảng 2000 sinh viên được xem là ưu tú tại
các trường của VN tham dự kỳ thi tuyển dụng của Intel. Bài thi gồm 50
câu hỏi với mức yêu cầu để vượt qua là phải đúng tối thiểu 60%. Kết quả
chỉ có khoảng 90 bạn làm được điều này.
Một thực tế đáng buồn là với cơ chế quản lý hiện tại
của VN thì khó có khả năng cử SV đi du học trong các chương trình đào
tạo tiến sỹ quốc tế uy tín nhất, trong khi cơ hội trong nước dường như
không có.
Tất nhiên luôn có những cá nhân tài năng có thể vượt
qua những hạn chế của hệ thống để tự tìm đường cho mình. Nhưng đó chỉ
là thiểu số. Chúng ta cần tìm ra cơ chế để tạo điều kiện cho đa số SV
có cơ hội này.
Đó là lý do tại sao VN cần cải tổ toàn bộ hệ sinh thái
giáo dục.
PV: 1 SV đẳng cấp quốc tế có nghĩa
là sau khi tốt nghiệp có thể làm ở bất cứ đâu trên thế giới, tại bất kỳ
tập đoàn lớn nào. Nhưng đại diện các tập đoàn như Microsoft, Boeing hay
Intel đều nhấn mạnh rằng SVVN rất kém tiếng Anh và thiếu kỹ năng mềm như
kỹ năng giao tiếp, lãnh đạo, làm việc nhóm… Theo ông, các trường ĐH của
VN nên làm gì để tăng cường kỹ năng mềm cho SV?
Ông Thomas Vallely: Theo tôi, khi đề
cập đến “phần mềm”, ý của các nhà tuyển dụng chính là muốn thay đổi hệ
thống, chính sách, đặc biệt là cơ chế quản trị. Tôi cho rằng chìa khóa
quan trọng nhất là giáo dục đại cương (general education). Mục đích là
trang bị cho người học những kỹ năng cơ bản để tiếp tục học hỏi cả đời.
Nguyên Hiệu trưởng ĐH Harvard Lawrence H. Summers từng
phát biểu trong chuyến thăm của Nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải tới Harvard
năm 2005 rằng: “SV phải được phép “thử thách” (challenge) giáo viên của
mình.” SV nên được khuyến khích trao đổi, đặt câu hỏi, tranh luận với
giảng viên.
Tôi cũng rất tâm đắc với ý kiến của TS. Nguyễn Sỹ Dũng
trên một tờ báo VN cách đây vài ngày rằng SVVN không nên xưng “em” mà
nên xưng “tôi” với giáo viên. Họ không nên ngồi yên nghe giảng mà phải
trực tiếp tham gia bài giảng.
Xin cảm ơn ông!
Lan Hương (thực hiện)
(theo VietNamNet) |