(Post 10/12/2005) Ông ngoại
Thủy thì tôi biết. Đó là cụ Tầm Phào, một cây đa cây đề trong làng tin
học, nay đã nghỉ hưu vui thú điền viên. Ông bảo, đấy không phải là truyện
ngụ ngôn, mà là up-ngụ ngôn…
Tôi hỏi Thủy, “ngựa bạch” là gì. Thủy
cười, dịch nghĩa là “xe ô-tô màu trắng”. Phải thừa nhận, đến máy tính
cũng không chịu được tệ nạn tham nhũng đang lan tràn xã hội.
Bài làm 3: Khỉ, thỏ và hổ
Bưởi lủng lẳng. Khỉ uyển chuyển nhảy,
thỉnh thoảng thả lỏng. Khỉ thả cửa trẩy bưởi, lẩm cẩm bổ bảy bảy quả bưởi.
Phải quả bưởi hỏng, khỉ nhả bưởi, lỉnh kỉnh xẻo vỏ bưởi xả lỏng chỏng.
Vài quả nhỏ, chẳng phổng, chả đỏ, chửa thể trẩy. Vả đỏ rủ cởi mở. Khỉ
thủng thẳng trẩy mẻ vả, đủng đỉnh phủi mủ, bỏm bẻm lủm cả quả, nhổ vỏ
vả lả tả.
Ở trảng cỏ bển, thỏ mải nhổ củ cải
bỏ giỏ. Thỏ mảnh khảnh, phải tẩm bổ để khỏe. Thỏ nhỏ nhẻ thưởng củ cải,
thỉnh thoảng, thỉnh thoảng tỏm tẻm cỏ nhổ ở cửa mả, tỉnh ngủ hẳn. Thỏ
tỏ vẻ ổn thỏa.
Hổ lởn vởn ngửi ngửi. Hổ tưởng bở
nhử thỏ khỏi trảng cỏ, nhảy xổ cổ thỏ, vả thỏ bảy vả, xẻ thỏ bảy mảnh,
tỉ mẩn tẩm củ sả điểm tỏi chẻ mỏng, bỏ vỉ, ủ lửa đỏ nhỏ nhỏ. Hổ lẩm nhẩm:
“Hảo! Chả thỏ bổ!”. Hổ tủm tỉm hể hả
Thỏ lẩy bẩy bủn rủn. Khỉ thủ thỉ bảo
thỏ chả phải nể hổ, đảm bảo hổ chẳng thể đuổi thỏ. Giả sử hổ đuổi thỏ,
khỉ cảm tử đẩy mảng chở thỏ ẩn ở mỏm lởm chởm hiểm trở nẻo biển cả, thử
hỏi hổ đuổi nổi thỏ?
Hổ khủng khỉnh bảo khỉ xỏ, giở quẻ,
thử để hổ đuổi khỉ. Hổ ỷ khỏe, đuổi khỉ để bẻ cẳng, để tẩn khỉ nẩy lửa.
Khỉ giả lẻo khoẻo chỉ trỏ, bả lả xỉ vả hổ. Khỉ bỉ hổ vẩu, tẩm, bẩn, chểnh
mảng, cẳng tủn ngủn. Hổ lẩm bẩm chửi rủa khỉ
Hổ đuổi khỉ bở cả phổi. Khỉ lẩn khỏi
trảng cỏ, nghển cổ. Cửa sổ bỏ ngỏ, khỉ lẻn cửa sổ, hẩy đổ tổ sẻ ở vỉa
cửa sổ, đủng đỉnh mở cửa, ẩy đổ tủ phẩm, dẩy đổ bể cảnh, đẩy chảo lủng
xủng loảng xoảng, ủn xẻng mẻ đổ loẻng xoẻng, mở cổng thả khuyển. Khuyển
ẳng ẳng sủa ỏm tỏi phản ảnh chủ. (Chủ khuyển trưởng giả, của nả rủng rỉnh,
cả thảy khoảng bảy tỷ bảng, nửa tỷ gởi ở hải đảo. Thủ trưởng thả nổi chẳng
bảo quản, chủ thả cửa ỉm sổ bảo hiểm của bảy xưởng tuyển ở mỏ, bẩn thỉu
biển thủ ở cửa khẩu của tỉnh. Thủ trưởng chẳng kiểm điểm kiểm thảo, chẳng
mổ xẻ, chẳng đuổi chủ. Chủ bẩm thủ trưởng, thủ trưởng thỉnh thoảng đổi
phỏm. Thủ trưởng tiểu xảo! Lởm khởm! Rởm! Tởm!)
Khỉ trổ thủng bể thủy ở đỉnh, lở cả
mảng, xả thủy chảy lả tả. Hổ nản. Chủ ủ lửa. Lửa nhỏ, củi ẩm. Khỉ phẩy
chổi sể, dẩu mỏ thổi lửa. Khỉ bẻ củi tẩm lửa, quẳng củi để đả hổ. Lửa
phả bỏng cổ hổ. Hổ lử đử. Khỉ quẳng cả rổ thảo quả hỏng. Hổ liểng xiểng.
Khỉ phởn, xỏ mảnh vải tổ đỉa, lải nhải phỉ nhổ hổ.
Hổ lẩn thẩn lảng vảng ở sảnh. Khỉ
phỉnh hổ nhảy bổ chửng ổ hổ lửa. Khỉ mở cửa, thả hổ lửa. Hổ lửa sổng,
lổm ngổm cả sảnh, lảo đảo ngỏng cổ mổ mổ, cản trở hổ. Hổ hoảng, tỏ vẻ
hiểu chẳng thể đuổi nổi khỉ, chỉ tổ khổ. Hổ uể oải mửa, lủi thủi tẩu thẳng,
kẻo tỏi.
Thỏ để dải vải đỏ ở cổ khỉ. Khỉ tủi
tủi. Thỏ lởi xởi mở giỏ bảo khỉ tẩm bổ củ cải. Khi thủ thỉ bảo, khỉ chẳng
thử củ cải, khỉ chỉ cảm thỏ, bởi thỏ mảnh dẻ. Thỏ ửng đỏ. Khỉ rủ rỉ. Thỏ
đỏng đảnh. Khỉ kể lể. Thỏ ỏn ẻn bảo khỉ khỏe, trẻ tuổi, chưởng giỏi, chuẩn…,
thỏ cảm khỉ. Khỉ lảo đảo, đổ. Thỏ trải thảm phẳng ở thảm cỏ. Khỉ khẩn
khoản. Thỏ bảo khỉ lẩm cẩm. Thỏ thở hổn hển. Khỉ xỉu, mỏi lả, ngửa cổ
ngủ thẳng cẳng.
Khi tôi hỏi, thế Thủy đã dạy cho máy
tính biết dấu ngã chưa, Thủy gãi đầu gãi tai, dúi vào tay tôi một bản
nháp, chua thêm lời nhận xét: “Chưa ổn lắm, bạn ạ”.
Bài làm 4: Cảnh bẫy chim
Lũ trĩ lãng đãng đỗ mãi Bãi Muỗm.
Lũ ngỗng hãi, lẫm chẫm đỗ Bãi Nhãn, vũng lõng bõng. Lũ giẽ dễ dãi dũi
mũi dẫm chẫu. Lão gõ mõ giã mỡ chẫu bẫy trĩ, bẫy ngỗng, bẫy giẽ. Gã võ
sĩ mũi lõ, mã vững chãi, dũng mãnh dẫn gão gõ mõ gỡ bẫy.
Lão gõ mõ vỗ vỗ lỗ bẫy. Lão giãn lẫy
gỗ hãm bẫy. Bẫy vẫn rỗng. Lão gõ mõ lỡ cỡ.
Mỹ nữ cưỡi mã lững thững vãn Bãi Giữa.
Mỹ nữ lõa xõa, mũ mỹ nữ lõng thõng. Mỹ nữ nhõng nhẽo nhũ mẫu. Mẽ! Nhũ
mẫu giữ kỹ mũ mãng, lẽo đẽo dỗ mỹ nữ. Mỹ nữ miễn lễ.
Nhũ mẫu rỗ lỗ chỗ. Lão gõ mõ lỗ mỗ
vẫy vẫy, lỡm nhũ mẫu. Nhũ mẫu phẫn lão gõ mõ sỗ, bỗ bã. Sĩ!
Hỗn! Gã võ sĩ dữ, kễnh, vũ dũng diễu
võ, nhỡ dẫm vỡ mũi lão gõ mõ. Lão gõ mõ ngã. Mũi lão đẫm, nhão.
Nhũ mẫu lễ mễ cõng lão gõ mõ. Vẽ!
Nhũ mẫu gãi gãi mũi lão. Bỗng mỹ nữ bẽn lẽn dỗi nhũ mẫu. Cãi vã tĩ tã.
“Nhũ mẫu, hãy giũ tã!”. Nhũ mẫu hãi mỹ nữ. dãi loãng vãi lã chã. Lão bỡn
mỹ nữ. Mỹ nữ sẽ sẽ giữ võng, võ vẽ dỗ lão tĩnh dưỡng. Gã quẫy rõ mỹ mãn.
Lão giãy gãy cũi gỗ. Hãn hữu!
Ừ, mà cũng chưa ổn thật!
*****
Tôi phỏng vấn Thủy xem mọi người nhận
xét thế nào. Thủy bảo: “Một anh bạn nước ngoài bảo, đọc xong hai bài đầu,
anh ấy nghĩ chữ Việt Nam mình giống chữ Trung Quốc, Nhật Bản. Đọc xong
bài cuối, anh hỏi, chữ nước mình liệu có họ hàng gì với chữ Thái Lan và
chữ Ả-rập không. Một ông sư ngạc nhiên, “máy tính mà cũng biết sọan kinh
tiếng Phạn”. Các thầy ở khoa nhận xét là: Lủng củng, Lùng bùng, Lan
man. Lẵng nhẵng. Láo nháo. Loạn xạ. Mẹ tớ đọc bài làm 3 xong, còn
gắt: tưởng hay hớm lắm đấy. Hay cái con khỉ!”
Thủy kể tiếp: “Buồn lắm bạn ạ. Một chuyên
viên ở Cục sở hữu trí tuệ khăng khăng cho là Thủy đã “dạy” cho máy tính
học truyện ngụ ngôn của La Phông-ten, Lép Tôn-xtôi để bắt chước. May nhờ
có ông ngoại tớ cứu cho”
Ông ngoại Thủy thì tôi biết. Đó là cụ
Tầm Phào, một cây đa cây đề trong làng tin học, nay đã nghỉ hưu vui thú
điền viên. Tôi hỏi: “Thế cụ bảo sao?”. Thủy bảo: “Ông bảo, đấy không phải
là truyện ngụ ngôn, mà là up-ngụ ngôn”. “Thế nghĩa là thế nào?”.
“Ông bảo, truyện ngụ ngôn là lấy chuyện con vật để giáo dục con người.
Mấy bài văn này, máy tính nó làm khác: từng chuyện thì vẫn là truyện
ngụ ngôn, nhưng tập hợp cả bốn câu chuyện lại làm thành một truyện ngụ
ngôn khác”. Tôi vẫn chưa hiểu. Thủy phải giải thích: “Ngày còn bé, ông
hay kể cho Thủy nghe những câu chuyện ngụ ngôn đề cao tinh thần đoàn kết.
Ví dụ như, các bộ phận cơ thể hay tị nạnh nhau ai làm việc nhiều hơn ai,
hoặc ba chiếc kim đồng hồ ai cũng tự cho là mình quan trọng hơn người
khác, hay, mỗi màu trong hộp bút sáp đều nghĩ là mình đẹp, không cần đến
màu khác… Ông bảo, giờ đây máy tính đã dạy cho con người thấy: mặc dù
mỗi dấu cũng có thể viết nên một câu chuyện, nhưng khó mà viết nổi nhiều
câu chuyện. Để tạo nên nhiều bài văn hay, nhất thiết phải có đủ năm dấu
và thanh không”.
Thủy còn kể thêm: “Ông tớ còn cho tớ
câu đối hay lắm để dán ở góc học tập.
Hãy nhớ, chẳng bao giờ phạm: Đành hanh, lười biếng, chủ quan, lãng
tử, phẫn chí, chụp giựt.
Phải gắng, giữ một niềm tin: Chăm chỉ, nhẫn nại, khéo léo, hiền lành,
lãng mạn, giỏi giang.
Đủ hết cả các dấu”.
Cảm ơn cụ Tầm Phào.
(theo Tin học & Đời sống) |