(Post 11/08/2007) Thế giới bây giờ thật là
nhỏ bé! Trong nhà chưa rõ ngoài ngõ đã tường. Chuyện học thêm ở nước ta,
không ngờ đã vang ra cả thế giới. Bằng chứng là một bài báo của Guillaume
Jan đăng trong tạp chí nổi tiếng của Pháp Thế Giới Giáo Dục nói về chuyện
học thêm ở Việt Nam với đầu đề Những lớp học tư bị cấm đoán… nhưng vẫn
được khuyến khích mạnh mẽ. Sau đây là nội dung bài báo.
Ngoài giờ
học ở trường, một số em còn đi học thêm. Ảnh: T.B |
|
Giữa trưa, giờ tan học ở quận Đống Đa, Hà Nội, Tâm cậu
bé 14 tuổi, áo trắng, mũ catket bằng vải jean, lưng đeo cặp, luồn lách
qua xe máy và xích lô để nhập vào đám bạn bè ở công viên bên cạnh. Các
em đến đó ăn vội vã dưới bóng cây thông, trước khi đi học ở một “trường
khác”. Cũng như phần đông học sinh Việt Nam, khi tan học ở trường công
vào giữa ngày, Tâm và các bạn đi củng cố kiến thức ở các lớp dạy thêm,
những chỗ học bán công khai trong những căn phòng biến thành lớp học.
Thật vậy về lý thuyết, các lớp học đó là bất hợp pháp vì Luật giáo dục
năm 1998 cấm “thương mại hóa hoạt động giáo dục”. Nhưng chính quyền tỏ
ra mềm dẻo từ ngày ĐỔI MỚI (nguyên văn) năm 1986, sáng kiến cá nhân được
phát huy cùng với việc Nhà nước nới lỏng sự độc quyền trong các việc công.
Chính trong bối cảnh đó mà “các lớp tư” được mở nhiều hơn trong 10 năm
gần đây, đến nỗi được học sinh chuộng hơn cả trường công.
Trường lớp công, tư tồn tại song song trong từng quận
ở Hà Nội và tất cả các thành phố trong cả nước. Chỉ cần chú ý một chút
cũng nhận ra ngay: một đống xe đạp, xe máy tràn cả đường, giọng thầy giáo
vọng ra từ một cửa sổ mở… Thường lớp học là phòng khách hay phòng ăn,
sắp xếp để thành lớp, thuê từng năm của chủ nhà, hoặc tầng trệt một nhà
4 tầng ở cuối một lối đi nhỏ của một biệt thự tư nhân.
Chủ nhà, bà Trần Huyền Minh, 50 tuổi, đợi học sinh lớp
buổi chiều. Bà thu “1 triệu đồng một tháng” (50 Euro), bằng lương thợ
điện của chồng. Họ mở các lớp này năm 1999. “Lúc đầu thì UBND cũng yêu
cầu chúng tôi đóng cửa, nhưng rồi họ cũng nhượng bộ khi thấy nhiều phụ
huynh kiên quyết đòi giữ lại”.
Hiện nay có đến hàng chục “lớp chui” trong quận. “UBND
làm lơ cho, bù lại họ cũng thu được tiền bồi dưỡng…”, bà nói.
13 giờ Tâm và các bạn có mặt ở lớp, học Anh văn, vật
lý, toán. Khi chúng về, trời đã tối. “Chiều nào, kể cả thứ bảy, chủ nhật
con cũng học ở đây”. Nó theo học các “siêu lớp” từ năm 6 tuổi. Dậy từ
6 giờ sáng, học suốt ngày đến nửa đêm để làm xong bài. Cũng như đa số
các gia đình khá giả ở thành phố, cha mẹ nó là dược sĩ, đã chi tiêu nhiều
cho việc học của con. Ở những gia đình nghèo hơn, một số phải mắc nợ nhiều
năm để đảm bảo cho con cái thi đậu. Tiền học thêm khá cao, từ 0,3-0,5
euro một giờ, trong khi thu nhập trung bình một gia đình là 100 euro/
tháng.
Cũng như nhiều em khác, Tâm bị gia đình bắt buộc phải
thi đậu: con một, nó phải tìm được một việc làm có lương khá để có thể
nuôi cha mẹ, ông bà càng ngày càng già yếu, trong một nước mà bảo hiểm
hưu trí hầu như chưa có. Ở Việt Nam trường hợp như Tâm không có gì đặc
biệt. Để đáp ứng với sức tăng dân số (gấp đôi trong 30 năm), Nhà nước
đã đề ra chính sách hạn chế sinh đẻ như ở Trung Quốc. Kết quả: thanh niên
thế hệ mới phải một mình nuôi dưỡng những người già cả. Được gửi gắm hy
vọng lớn, học sinh không có con đường nào khác là phải có một tấm bằng,
công cụ cần để có một chỗ làm lương cao. Đó là nguyên nhân của các lớp
dạy thêm, được xem như một nhân tố hỗ trợ sự thành công, trong khi chất
lượng giáo dục công bị đánh giá là kém hơn.
Do cầu rất lớn, nên cung đáp ứng ngay, lợi dụng được
sự bất cập của lĩnh vực công để khai thác thời cơ kiếm tiền. Dịch vụ “lớp
tư” đem lại thu nhập rất khá cho giáo viên, vốn lương còn thấp (chính
thức chỉ 700.000 đồng = 35 euro/ tháng). Cũng như mọi công chức Việt Nam,
họ bắt buộc phải làm thêm một công việc thứ hai. Đó là trường hợp của
bà Đàm Thu Trang, giáo viên Anh văn ở một trường của quận, dạy buổi chiều.
“Lớp dạy tư cho tôi thu nhập gấp ba. Mỗi học sinh trả cho tôi 20.000 đồng
(1 euro)/ buổi”, bà nói. Dạy mỗi tuần một buổi, bà cũng lãnh được 50 euro/
tháng.
Cuối cùng, xung quanh các lớp dạy tư là cả một thị trường:
nhiều chủ nhân các phòng học ở tầng trên, mở quán ăn ở tầng trệt. Thu
nhập của họ cộng với “tiền bồi dưỡng” của các người giữ xe đạp, xe máy
cho học sinh, cũng gấp ba, gấp bốn lần thu nhập bình quân. Điều đó tất
nhiên dẫn việc phải “biết điều” với quan chức địa phương để họ làm ngơ
cho. “Ở Việt Nam các lớp dạy tư xếp đặt mọi việc”, bà Nguyễn Ánh nói.
Bà dạy Anh văn ở Đại học Bách khoa và là mẹ của con trai 16 tuổi. Bà nói:
“Cha mẹ đi làm buổi chiều, biết chắc con mình đang đi học. Về phía giáo
viên, họ tăng thu nhập gấp ba. Và Chính phủ cách đây mấy năm còn làm ngơ
một cách khó khăn các cơ sở dạy tư thì bây giờ đã tỏ ra dễ dãi, vì họ
thấy được những ích lợi khi để cho các trường tư tham gia vào lĩnh vực
giáo dục. Các trường tư tự tổ chức lại để đáp ứng với sự mở cửa của Nhà
nước, tuy làm như vậy có nguy cơ tăng sự bất bình đẳng, là điều mà ngành
giáo dục đã lưu ý từ đầu.
Bà Tuyết Nhung, phụ trách chương trình song ngữ Pháp
Việt ở Bộ Giáo dục nói: “Nhiều buổi học vô ích, cũng vẫn giáo viên đó
dạy lại bài đã dạy buổi sáng ở lớp mới chật ních. Nhiều phụ huynh cảm
thấy bị lừa…”.
Nhà nước có vẻ muốn xác định vai trò hợp pháp của các
trường tư, nhưng vị trí của chúng cũng còn mờ nhạt.
Giáo sư về hưu tên Phương, tiếp tục dạy ở trường tư nói:
“Việt Nam sống trong một hệ kinh tế có hai tốc độ, hệ thống đó hiện nay
vận hành tốt. Mọi người cảm thấy hài lòng trong hệ thống đó”.
Tất cả hài lòng, trừ học sinh ra; các em sống trong sức
ép của học tập như những nhà tu khổ hạnh. Trước khi về nhà làm bài, Tâm
than thở: “Con cảm thấy mình sống như một rô-bốt”.
Phan Thanh Quang
(theo Guillaume Jan trong Thế Giới Giáo Dục của Pháp) |